Tịnh độ là gì, vài điều cơ bản về pháp môn Tịnh Độ

Tịnh độ là gì, vài điều cơ bản về pháp môn Tịnh Độ

Một ngày vô thường đến, ta sẽ đi về đâu khi chưa có hành trang, không khéo đi theo nghiệp cũ do những chủng tử bất thiện đã tích luỹ trong A-lại-da thức. Có câu “Đường huỳnh tuyền không phân lão ấu, ngoài mộ phần lắm kẻ tóc còn xanh”

Vì vậy, thời gian không còn nhiều nữa, gặp được duyên Tịnh Độ thật là trân quý, thời Chánh pháp người người thành tựu, thời Tượng pháp Thiền Tông thành tựu, thời mạt pháp ngày nay niệm Phật cầu vãng sanh là toa thuốc Đức Phật khuyên bảo chúng sinh, dùng hay không là phước duyên của bạn

Nay bạn đã bao nhiêu tuổi, thì thời gian cũng không còn nhiều nữa, Khải Toàn tha thiết mong bạn nhiếp tâm niệm Phật, đi đứng nằm ngồi niệm Phật, niệm không gián đoạn, mong Phật thương xót, cứu giúp, tiếp dẫn mình về thế giới phương Tây cực lạc, về cõi Phật được làm Phật.

Mời chư vị tìm nghe bài Khải Toàn ghi âm trên Youtube

Người sơ phát tâm tu học, bước đầu tu tâm thanh tịnh, cánh cửa này không đột phá, không thể bước vào cánh cổng tiếp theo, về cõi Tịnh độ
Tâm thanh tịnh là không thấy lỗi người, là phá chấp, không gì trực chỉ bằng tu lục độ hạnh Bồ-tát

Tâm thanh tịnh liền sinh trí huệ, thấy lẽ thật, nhận thật bỏ giả, vậy, cái gì là giả
Thế gian pháp cho tiền tài danh lợi là thật, cho cõi Tịnh độ là giả, những thứ thật của thế gian là nghiệp lực kéo chúng ssinh vào 3 đường dữ, tâm tham là cõi ngạ quỉ, tâm sân giận về cõi địa ngục, tâm si mê về cõi súc sinh

Mỗi tối chìm vào giấc ngủ, tài sản danh lợi là hư ảo, người khác khiêng bạn đi bạn còn không hay. Sanh không mang đến, chết không mang đi được gì, những thứ thế gian pháp cho là thật

Ái dục sắc dục là thứ khiến con người mãi phiền não khổ đau, mãi chìm trong biển khổ sanh tử, sống trong ranh giới sợ được sợ mất, vì tâm mê mờ

Tu tâm thanh tịnh không lấy giả làm thật, không chấp chặt thứ “sanh không mang đến, chết không mang đi”, Tu tâm thanh tịnh lấy câu Phật hiệu làm linh đơn, lấy thế giới Cực lạc làm quê nhà, niệm Phật đến nhất tâm bất loạn, tâm tịnh thì cõi Phật tịnh, dù sống ở cõi nào cũng là cõi Tịnh

Khải Toàn ghi âm bài giảng cúng giường chư vị, khuyến thiện chư vị nghe giảng kinh, nhất tâm niệm Phật, cầu sanh tây phương cực lạc, bài giảng trên mạng do chùa Hoằng Pháp đăng tải, đồng thời mời chư vị tìm nghe bài giảng kinh Vô Lượng Thọ giảng giải do lão H.T PS Tịnh Không giảng, pháp môn Tịnh độ lấy 3 bộ kinh làm chính yếu: Vô Lượng Thọ, Quán Vô Lượng Thọ, Phật Thuyết A-di-đà Kinh, mời chư vị tìm bài giảng

Nam mô A-di-đà Phật

I. TỊNH ĐỘ LÀ GÌ

Tịnh độ chính là cõi nước hoàn toàn thanh tịnh, an vui, không có phiền não khổ đau, được hình thành dựa trên hạnh nguyện độ tha của chư Phật, chư Bồ-tát.
Bằng bốn năng lực “Từ, Bi, Hỷ, Xả” cùng với nhân duyên thù thắng, và quả vị viên mãn mà hóa hiện ra vô số cảnh giới Tịnh độ để tiếp dẫn, trợ duyên cho chúng sanh vãng sanh về nơi đó tu tập, cho đến ngày thành Phật.

1. Tịnh độ là đối với uế độ mà thành lập

Do có “uế độ” nên hiện ra “tịnh độ”, cũng như “sạch” đối với “dơ”mà có, hoặc “trắng” đối với “đen” mà lập. Tất cả duy chỉ một mục đích là hiển bày rõ sự khổ ở cõi “uế độ” dơ bẩn, đen đúa và hiển bày sự an lạc trong sạch, tinh khiết ở cõi “tịnh độ” để chúng sanh khởi lên ý niệm buông bỏ tham chấp, si mê trong ngục tù của “thương giận, buồn vui, ghét muốn” hướng đến sự giải thoát nội tâm, đạt được “hoan hỷ, thương yêu, hiểu biết” chân thật.

a. Uế độ
Là cõi nước do cộng nghiệp của chúng sanh, nương gá nhau mà hình thành. chúng sanh phần nhiều phước đức ít, nghiệp chướng dày nên chiêu cảm cảnh giới tương xứng, khổ nhiều vui ít.Ví dụ như cõi Ta-bà của chúng ta.

b. Tịnh độ
Là cõi nước của chư Phật, chư Bồ-tát tát hóa hiện trang nghiêm thanh tịnh, không trần cấu bẩn nhơ, được dùng làm đạo tràng để hóa độ chúng sanh.Ví dụ như cõi Tịnh độ của đức Phật A-di-đà.

Trong mười phương thế giới, có vô số cõi Tịnh độ như cõi Tịnh độ của Phật Dược Sư, trong kinh Dược Sư Lưu Ly Bản Nguyện Công Đức, cõi Tịnh độ Diệu Hỷ của Phật Bất Động, trong kinh Đại Bửu Tích, cõi Tịnh độ Cực Lạc của Phật A-di-đà, được nói trong kinh Vô Lượng Thọ, Quán Vô Lượng Thọ, Phật Thuyết A-di-đà Kinh, v.v…Ngoài ra còn vô số cảnh giới Tịnh độ khác.

Tùy theo căn cơ sai biệt của vô số chúng sanh, mà chư Phật hóa hiện vô số cõi Tịnh độ khác nhau.
Trong Tây Phương Hiệp Luận, phân chia thành 10 cõi Tịnh độ không đồng như:
Tỳ Lô Giá Na Tịnh độ, Duy Tâm Tịnh độ, Hằng Chơn Tịnh độ, Biến Hiện Tịnh độ, Ký Báo Tịnh độ, Phân Thân Tịnh độ, Y Tha Tịnh độ, Thập Phương Tịnh độ, Nhất Tâm Tịnh độ, và Bất Khả Tư Nghì Tịnh độ.

Nói mười cõi Tịnh độ khác nhau, là đứng trên phương diện danh từ giả lập, nhưng kỳ thật các cõi Tịnh độ đều chung một bản nguyện căn bản, là tiếp dẫn và hóa độ chúng sanh lìa mê khai ngộ.
Vì sao?
Vì trong một cõi bao hàm cả bốn cõi, tương ứng với từng cấp độ tu chứng: Phàm thánh đồng cư Tịnh độ, Phương tiện hữu dư Tịnh độ, Thật báo vô chướng ngại Tịnh độ và Thường tịch quang Tịnh độ. Do chúng sanh căn tánh không đều nên hóa hiện ra dùng làm phương tiện để tiếp độ.

2. Cõi Tịnh độ của đức Phật A-di-đà

Như vô số cõi Tịnh độ khác, cõi Tịnh độ của đức Phật A-di-đà được thiết lập dựa trên 48 lời đại nguyện thâm sâu, chứa chan lòng đại từ bi cùng với năng lực trí tuệ vi diệu, tiếp dẫn chúng sanh về Cực Lạc Tây phương tạo thắng duyên lành, tu tập đến ngày viên thành Phật quả.

a. Vì sao đức Phật Thích-ca đặc biệt tán thán ccõi Tịnh độ Cực Lạc Tây Phương ?
Cõi Tịnh độ của đức Phật A-di-đà, được chính lời vàng chân xác của đức Phật Thích-ca Mâu-ni đặc biệt giới thiệu và tán thán vì:

chúng sanh nơi cõi Ta-bà này, phần lớn tạo nhiều ác nghiệp như: Bất kính Sư trưởng, bất hiếu cha mẹ, không tin Tam Bảo, giết người đoạt của, tham dục lẩy lừng, tà kiến đảo điên, khiến đọa sinh vào vô số cảnh giới khổ đau trong ba cõi: Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sinh.

Chỉ có cõi Tịnh độ của đức Phật A-di-đà, mới đáp ứng đầy đủ nhu cầu về thân và tâm của chúng sanh. Vì ở đây tất cả đều được làm bằng bảy báu trang nghiêm: vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não. Lại nữa tiếng chim hót, tiếng suối reo, tiếng lá xào xạc cũng phát ra pháp âm vi diệu, thù thắng.

Sống trong cảnh giới hoàn toàn vô cấu như thế nên tâm chúng sanh không còn tham lam, sân hận, si mê và thân thể không còn bị ngũ dục (tài sản, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ) chi phối

Chỉ có đức Phật A-di-đà, cùng với hai vị Bồ-tát thượng thủ Quán Thế Âm và Đại Thế Chí, là có nhiều nhân duyên đặc biệt với tất cả chúng sanh trong cõi Ta-bà, khiến chúng sanh quy hướng, kính tin, phát nguyện cầu sinh Tịnh độ.

48 lời đại nguyện của Phật A-di-đà, được lưu xuất từ lòng từ bi bao la, và trí tuệ quảng đại nên có thể tiếp dẫn tất cả các hạng chúng sanh vãng sanh Tịnh độ.
Ví như lời nguyện thứ 18: “Khi tôi thành Phật, chúng sanh ở mười phương chí tâm tin ưa muốn sinh về nước tôi nhẫn đến mười niệm, nếu không được sinh thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.”

b. Chánh báo và y báo cõi Tịnh độ

Chánh báo, tức là quả báo hiện nơi tự thân. Ví như thân tướng trang nghiêm thù thắng của Phật A-di-đà.

Y báo, tức là quả báo hiện ngoài tự thân. Ví như hoàn cảnh, quốc độ và tất cả sự vật bao quanh nơi thế giới Cực Lạc.

Chánh báo và y báo cõi Tịnh độ, được hình thành từ sự tư duy nhiếp thủ của đức Phật A-di-đà khi còn là một vị Pháp Tạng Tỳ-kheo.
Vì nguyện lực muốn thiết lập cảnh giới Tịnh độ, để nhiếp hóa chúng sanh mà thỉnh cầu đức Thế Tự Tại Vương Như Lai, hiển bày về thắng cảnh ưu việt của 210 cõi Tịnh độ.
Sau khi quán sát rõ y báo và chánh báo nơi các cõi, Ngài đã tinh cần tư duy tu tập “tạo nhân quốc độ” trải qua 5 kiếp, mới hình thành cõi Cực Lạc trang nghiêm.

Do nhân và quả thù thắng như vậy, nên chúng sanh nào nhất tâm cầu nguyện vãng sanh Tây phương Tịnh độ, cũng đều đạt được y báo và chánh báo trang nghiêm như Phật A-di-đà, ví như nước trong chậu hòa vào nước biển, cùng chung một hương vị không khác.

Chánh báo trang nghiêm

Trong Phật thuyết A-di-đà kinh ghi rằng: “…Xá-lợi-phất! Lại đức Phật đó có vô lượng vô biên Thanh văn đệ tử đều là bực A-la-hán, chẳng phải tính đếm mà có thể biết được, hàng Bồ-tát chúng cũng đông như thế. Xá-lợi-phất! Cõi nước của đức Phật đó thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy.

Xá-lợi-phất! Lại trong cõi Cực Lạc, những chúng sanh vãng sanh vào đó đều là bất thối chuyển. Trong đó có rất nhiều vị bực nhất sinh bổ xứ, số đó rất đông, chẳng phải tính đếm mà biết được, chỉ có thể dùng số vô lượng vô biên A-tăng-kỳ để nói thôi! Xá-lợi-phất!
chúng sanh nào nghe những điều trên đây, nên phải phát nguyện cầu sinh về nước đó.Vì sao? Vì đặng cùng với các bậc Thượng thiện nhơn như thế câu hội một chỗ…”

Trên chỉ giới thiệu, một trong rất nhiều chánh báo thù thắng nơi cõi Tịnh độ, nay nói tóm lược như sau:

Thân tướng trang nghiêm: 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, sắc như vàng ròng, cùng đồng một thể không có sai khác.

Thọ mạng vô hạn lượng: Người vãng sanh về Cực Lạc sống lâu vô cùng, hoàn toàn tự chủ, tùy theo bản nguyện.

Có đủ sáu phép thần thông:
Thấy suốt tất cả (thiên nhãn), nghe suốt tất cả (thiên nhĩ), biết rõ tâm niệm kẻ khác (tha tâm), biết rõ kiếp quá khứ (túc mạng), đi lại tự tại (thần túc), khi đắc quả A-la-hán dứt sạch nghiệp luân hồi (lậu tận).

Tâm trí: Luôn an trụ trong chánh định.

Không còn đọa vào ác đạo: Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sinh.

Hóa sinh: Sinh ra từ hoa sen, không do ái dục giữa nam nữ mà thành.

Thân tâm an lạc: Như các vị Tỳ-kheo đã chứng quả A-la-hán.

Không còn có tên bất thiện: Danh từ và sự bất thiện đều không.

Đạo tâm bất thoái: Tâm luôn dũng mãnh tinh tấn thẳng đến đạo Vô thượng chánh giác, không còn thoái chuyển.

Trí tuệ biện tài: Biện tài ứng đối thông suốt không chướng ngại.

Được vô sinh nhẫn: Phá trừ hết ngã chấp và pháp chấp. Lý và trí không hai.

Oai lực tự tại: Như chư Bồ-tát, Thanh văn đầy đủ năng lực, thần thông tự tại.

Thân sáng chói lọi: Hàng Thanh văn thân thì chiếu sáng được một tầm; hàng Bồ-tát thì thân chiếu sáng được từ một trăm do tuần cho đến tam thiên đại thiên thế giới.

Vô số Thanh văn: Đức Thích-ca đã bảo cho Ngài A-nan hay rằng: “Có sức thần như Mục Kiều Liên và dùng sức thần thông ấy trải qua trăm ngàn muôn ức vô số kiếp, cũng không thể biết được số lượng Thanh văn Bồ-tát chứng quả, trong đại hội đầu tiên của đức A-di-đà giáo hóa; dù cho có biết được một phần nào mà nếu đem so với số chưa biết được thì cũng không khác nào một giọt nước so với biển cả.”

Vô số bổ xứ Bồ-tát: Bồ-tát sắp thành Phật không thể đếm được.
Y báo trang nghiêm

Phật thuyết A-di-đà kinh lại chép rằng: “…Xá-lợi-phất! Cõi đó vì sao tên là Cực Lạc?Vì chúng sanh trong cõi đó không có bị những sự khổ, chỉ hưởng những điều vui, nên nước đó tên là Cực Lạc.

Xá-lợi-phất! Lại trong cõi Cực Lạc có bảy từng bao lơn, bảy từng mành lưới, bảy từng hàng cây, đều bằng bốn chất báu bao bọc giáp vòng, vì thế nên nước đó tên là Cực Lạc …”

Đây cũng chỉ là một phần y báo nơi cõi Cực Lạc thù thắng, nếu nói rộng ra thì đến muôn ngàn lời, nay tóm lược về phần y báo như sau:

Cõi nước bằng phẳng thanh tịnh: không có bụi dơ, sông ngòi hang hố, núi non gò đống chập chùng.

Mặt đất do bảy báu tạo thành: Dưới đáy đất có đế bằng vàng, kim cang và thất bảo chống đỡ đất lưu ly.

Khí hậu ôn hòa: Khí hậu không lạnh không nóng, mát mẻ quanh năm.

Lưới báu bủa giăng: Vô lượng lưới báu treo các linh báu giăng khắp cõi Phật. Hễ nghe tiếng linh thì tự nhiên sinh tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.

Sáu thời mưa hoa: Ngày đêm chia sáu thời có gió dịu phảng phất; đồng thời từ trên trời, hoa Mạn-đà-la rơi xuống cùng khắp bờ cõi thơm tho mát dịu.

Sen báu đầy dẫy: Các thứ hoa sen báu mọc lên cùng khắp cả cõi Phật. Mỗi một hoa sen báu lại có trăm ngàn ức cạnh phát ra vô lượng màu sắc.

Hóa Phật thuyết pháp: Từ mỗi hoa sen báu tuôn ra ba mươi sáu trăm ngàn ức hào quang; trong mỗi hào quang hiện ra ba mươi sáu trăm ngàn ức đức Phật, với thân vàng sáng chói, tướng tốt trang nghiêm. Mỗi một đức Phật lại phóng ra vô số hào quang chiếu sáng khắp mười phương và nói pháp nhiệm mầu cho mười phương nghe.

Cây đạo tràng của Phật: Cây đạo tràng của đức Phật A-di-đà là do các báu hợp thành. Trên cây treo các chuỗi ngọc, lưới báu bủa giăng hết thảy đều trang nghiêm và tùy ý ứng hiện.

Cây báu phát âm thanh: Vô số cây báu mọc cùng khắp cõi Tịnh độ. Khi một làn gió nhẹ thoảng qua, từ cành, từ lá, từ hoa, từ quả mỗi mỗi đều phát ra năm thứ thanh âm hòa nhã như trăm ngàn điệu nhạc hòa tấu một cách tự nhiên. Nghe tiếng nhạc ấy rồi chúng sanh liền lần lượt chứng nhập giáo pháp sâu xa, tiến lên bậc bất thoái, tiến mãi cho đến khi thành tựu quả Phật.

Muôn vật nghiêm lệ: Hết thảy muôn vật đều trang nghiêm thanh tịnh, sáng suốt xinh đẹp. Hình sắc đặc biệt và lộng lẫy một cách vi diệu, không thể tả xiết.

Không có ba đường dữ: Không có các khổ nạn của ba cảnh giới Địa ngục, Ngạ quỷ và Súc sinh

Cung điện trang nghiêm: Hết thảy nhà cửa như giảng đường tịnh xá, cung điện, lầu gác đều tự nhiên thành tựu, đều được xây và trang hoàng từ bảy thứ báu.

Quốc độ thanh tịnh: Quốc độ thanh tịnh trong suốt như một thế giới pha lê, chiếu tỏa khắp mười phương, khiến từ đó có thể trông thấy được vô lượng vô biên vô số thế giới của chư Phật bất khả tư nghì.

Hồ tắm trong thơm: Nước trong các hồ tắm yên lặng trong suốt, bản chất thanh tịnh mùi vị thơm tho như nước cam lồ và có đầy đủ tám tính chất gọi là “bát công đức thủy”.

Nếu là hồ hoàng kim thì dưới đáy là cát bạch ngân; nếu là hồ bạch ngân thì dưới đáy là cát vàng; nếu là hồ thủy tinh thì dưới đáy là cát lưu ly; nếu là hồ lưu ly thì dưới đáy là cát thủy tinh; nếu là hồ san hô thì dưới đáy là cát hổ phách; nếu là hồ hổ phách thì dưới đáy là cát san hô; nếu là hồ xa cừ thì dưới đáy là cát lưu ly; nếu là hồ bạch ngọc thì dưới đáy là cát vàng tía; nếu là hồ vàng tía thì dưới đáy là cát bạch ngọc. Các nhóm báu ấy còn thay đổi tùy theo ý người muốn; hoặc do hai thứ báu, hoặc do ba, bốn cho đến bảy thứ báu mà hợp thành.

Nước hồ lên xuống tùy nguyện: Nhân dân ở quốc độ Cực Lạc, một khi bước chân xuống hồ, mực nước lên xuống cao thấp đều tùy theo ý nguyện. Cũng tùy theo ý nguyện mà nước hồ có ấm lạnh một cách tự nhiên. Tắm xong, tinh thần thấy sảng khoái và tẩy trừ hết tâm cấu nhiễm.

Mỗi khi bước xuống tắm, bốn phía bờ hồ có tiếng sóng vỗ lao xao như một điệu nhạc, phát ra tiếng niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Tiếng tịch tịnh xa vắng, tiếng vô ngã, tiếng đại từ đại bi, tiếng Ba-la-mật… Những tiếng phát ra như vậy rất xứng hợp với người nghe và khiến người nghe sinh tâm hoan hỷ vô lượng.

Hương xông ngào ngạt: Từ mặt đất lên đến hư không, hết thảy cung điện, lầu gác hồ sen, cây hoa… Cho đến tất cả vạn vật đều xông ướp trong trăm ngàn thứ hương thơm, kết hợp do vô lượng tạp bảo đặc biệt. Hương ấy tỏa khắp mười phương thế giới; Bồ-tát ngửi thấy mùi hương đều dũng mãnh tu theo hạnh Phật.

Thức ăn tinh khiết: Thức ăn gồm các thứ hương hoa vô cùng tinh khiết và thù thắng hơn ở cả cảnh trời. Khi muốn ăn, chén bát thất bảo tự nhiên hiện ra với trăm thức ăn uống đầy đủ. Cách ăn không như ở cảnh giới chúng ta, mà chỉ bằng tác ý và bằng mắt thấy tai nghe, tức thời tự nhiên bảo mãn. Ăn xong, thức ăn tiêu hóa; đến giờ ăn sau, những thức ăn mới lại tự nhiên hiện ra như trước.

Y phục tùy niệm: Y phục của nhân dân tùy niệm tùy hiện, không cần may, cắt, giặt, nhuộm.

Chim biết thuyết pháp: Các thứ chim ở cõi này đều là hóa thân của đức Phật A-di-đà. Ngài biến hóa ra các thứ chim tạp sắc kỳ diệu như Bạch Hạc, Khổng Tước, Anh Võ, Xá-lợi, Ca-lăng-tần-già, Cọng Mạng, chim Phù, chim Nhạn… ngày đêm sáu thời, kêu tiếng hòa nhã. Tiếng ấy giảng giải pháp Ngũ căn, Ngũ lực, Bảy phẩm Bồ-đề, Tám pháp chánh đạo…

Khiến người nghe đều phát tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.

Lược thuật qua chánh báo và y báo thù thắng của cõi Tịnh độ để thấy được công đức tu hành và hạnh nguyện độ sinh của chư Phật thật không thể nghĩ bàn.

Cõi Tịnh độ với đầy đủ tiện nghi khiến cho chúng sanh ở cõi nước đó không còn lo nghĩ đến sự ăn uống, tài sản…Vì khắp nơi đều là bảy báu, mọi người sống chan hòa cùng chư Bồ-tát, Thanh văn. Toàn cõi đều là pháp âm vi diệu, nghe pháp này khiến chứng ngôi bất thoái vĩnh viễn không còn luân hồi. Trên đây chỉ dùng ngôn ngữ hạn cuộc thế gian để phô diễn chút nhỏ nhoi công đức bao la của cảnh Tây phương.chúng sanh không nên dừng lại ở đây, phải nỗ lực tiến tu để chứng nhập cái vô cùng của công đức Phật, như người uống nước nóng lạnh tự biết, không cần phải khổ công tính toán so lường.

II. Phẩm vị cõi Tịnh độ của đức Phật A-di-đà

Đối với pháp môn Tịnh độ, bất cứ ai nhất tâm chuyên niệm hồng danh đức Phật A-di-đà, thiết tha cầu nguyện vãng sanh đều được như ý nguyện, không phân biệt hạng người cao thấp, sang hèn, trí thức hay ngu dốt. Bởi đây, ngoài sự nỗ lực tu hành của tự thân, người niệm Phật vẫn luôn được tha lực của chư Phật, chư Bồ-tát và Thánh chúng gia trì tiếp độ. Tha lực ấy biến khắp trong 48 lời đại nguyện cứu độ chúng sanh, trừ nguyện lực 18, 19 và 20 có sự liên đới trách nhiệm giữa tự lực của chúng sanh và tha lực của đức Phật, những lời nguyện còn lại hoàn toàn dựa vào tha lực. Như lời nguyện thứ 31: “Lúc tôi thành Phật, cõi nước tôi thanh tịnh, nơi nơi đều soi thấy tất cả vô lượng vô số bất tư nghị thế giới ở mười phương, như là thấy mặt mình trong gương sáng. Nếu chẳng được như vậy, thời tôi không ở ngôi Chánh Giác.”

Tuy tha lực của chư Phật đối với chúng sanh không có phân biệt nhưng tùy vào khả năng lãnh hội và dụng công tu hành mà có chia ra ba bậc và chín phẩm khác nhau.

1. Ba bậc và chín phẩm vãng sanh

Theo kinh Đại Bổn nói khái lược có ba, kinh Quán Vô Lượng Thọ chi tiết chia làm chín. Tuy số lượng có khác nhau nhưng ý nghĩa vẫn không khác, nay tóm tắt trình bày như sau:

a. Bậc thượng căn và ba phẩm thượng
Hạng thượng căn là những chúng sanh xuất gia ly dục thanh tịnh, nhờ đọc tụng Đại thừa, hiểu sâu chân lý tuyệt đối, rộng tu các công đức. Tùy vào khả năng tu chứng chia ra làm ba phẩm: Thượng phẩm Thượng sinh, Thượng phẩm Trung sinh và Thượng phẩm Hạ sinh.

b. Bậc trung căn và ba phẩm trung
Hạng trung căn là những chúng sanh phụng trì trai giới, hồi hướng công đức, hiếu dưỡng cha mẹ, tu các nhân lành ở đời, chuyên niệm danh hiệu Phật. Tùy vào khả năng tu chứng chia ra làm ba phẩm: Trung phẩm Thượng sinh, Trung phẩm Trung sinh và Trung phẩm Hạ sinh.

c. Bậc hạ căn và ba phẩm hạ
Hạng hạ căn là những chúng sanh biết sám hối tội lỗi sau khi đã lỡ lầm, biết tinh tấn tu theo phép thập niệm. Tùy theo khả năng tu chứng chia ra làm ba phẩm: Hạ phẩm Thượng sinh, Hạ phẩm Trung sinh và Hạ phẩm Hạ sinh.

Điểm chung của cả ba hạng cùng lấy sự phát Bồ-đề tâm làm động cơ căn bản tu hành.

2. Nhân quả tương ứng với chín phẩm vị ci Tịnh độ

Phẩm vị tu chứng cũng được thể hiện rõ ràng theo quy luật nhân quả. Nay theo kinh Quán Vô Lượng Thọ lược thuật như sau:

a. Ba phẩm bậc thượng
Thượng phẩm thượng sinh

Nhân tạo tác lúc sinh tiền: Vì lòng từ không sát sinh hại vật, nghiêm trì các giới hạnh, phát Bồ-đề tâm, siêng đọc tụng kinh điển Đại thừa, tưởng niệm 6 phép tu hành (tưởng niệm Phật, tưởng niệm Pháp, tưởng niệm Tăng, tưởng niệm bố thí, tưởng niệm giới hạnh, tưởng niệm phước đức) hồi hướng công đức, phát nguyện cầu sinh Tịnh độ. Tròn đầy các công đức ấy rồi từ 1 ngày đến 7 ngày sẽ được vãng sanh.

Trạng huống lúc lâm chung: Đức Phật A-di-đà, đức Quán Thế Âm, đức Đại Thế Chí cùng các đấng hóa Phật và Thánh chúng, tay nâng đài kim cương đến trước hành giả. Phật và Bồ-tát đều phóng hào quang chiếu sáng khắp thân hình hành giả, đưa tay tiếp dẫn tán thán công đức và khuyến khích tinh tấn. Hành giả hoan hỷ bước lên đài kim cương, tùy hành theo Phật và Thánh chúng. Trong khoảnh khắc, vãng sanh Cực Lạc.

Quả chứng đắc khi vãng sanh: Sau khi sinh về cõi Tịnh độ rồi, thấy được rừng cây ao báu, khắp nơi Phật và Bồ-tát, sắc tướng trang nghiêm hiện ra diễn thuyết pháp mầu. Nghe xong, liền ngộ vô sinh pháp nhẫn. Trong chốc lát, dạo khắp mười phương, phụng sự hằng sa chư Phật. Theo thứ lớp được thọ ký, chứng đặng vô lượng pháp môn tổng trì rồi trở về quốc độ mình tùy nguyện hóa độ chúng sanh.

Thượng phẩm trung sinh
Nhân tạo tác lúc sinh tiền: Tuy chưa thọ trì đọc tụng kinh điển Đại thừa, chưa hiểu rõ thâm nghĩa, nhưng đối với chân lý tuyệt đối, lòng không kinh động. Đã thâm tín nhân quả, không hủy báng Đại thừa, đem công đức ấy hồi hướng cầu sinh Cực Lạc.

Trạng huống lúc lâm chung: Đức Phật A-di-đà và toàn thể Thánh chúng, tay nâng đài vàng đến trước hành giả, tỏ lời tán thán công đức khuyên tu học lý đệ nhất nghĩa của Đại thừa. Hành giả ngồi lên đài vàng chắp tay tán Phật, trong khoảnh khắc liền sinh Tịnh độ.

Quả chứng đắc khi vãng sanh: Ở trên đài vàng như hoa sen lớn một đêm hoa nở để lộ ra một thân tướng sắc vàng. Hành giả nghe các âm thanh thuần nói pháp đệ nhất nghĩa rất sâu xa. Trải qua bảy ngày, không thoái chuyển Bồ-đề tâm, liền sau đó bay đi khắp mười phương, lễ bái chư Phật, tu các pháp tam muội. Qua một kiếp, chứng được vô sinh pháp nhẫn và được thọ ký thành Phật.

Thượng phẩm hạ sinh Nhân tạo tác lúc sinh tiền: Tin nhân quả, không hủy báng Đại thừa. Có phát đạo tâm vô thượng, đem công đức ấy hồi hướng cầu sinh Tịnh độ.

Trạng huống lúc lâm chung: Thấy đức Phật A-di-đà, đức Quán Thế Âm, đức Đại Thế Chí cùng 500 hóa Phật đến rước, đồng thanh tán rằng: “Pháp tử! Ngươi đã phát đạo tâm vô thượng nên nay chúng ta đến rước ngươi.” Hành giả thấy mình ngồi trên đài hoa sen vàng. Ngồi xong, hoa búp lại, theo Phật và Bồ-tát vãng sanh trong ao sen thất bảo.

Quả chứng đắc khi vãng sanh: Ngồi trong hoa sen được một ngày một đêm thì sen nở. Sau 7 ngày mới thấy tướng tốt của Phật nhưng chưa rõ lắm. Sau 21 ngày, mắt mới thấy tỏ tường đồng thời tai cũng nghe tiếng thuyết pháp. Rồi cũng chu du khắp mười phương để nghe chư Phật nói các pháp nhiệm mầu. Trải qua 3 tiểu kiếp, chứng được bách pháp minh môn an trú ở địa vị Hoan hỷ (tức sơ địa Bồ-tát).

b. Ba phẩm bậc trung

Trung phẩm trung sinh

Nhân tạo tác lúc sinh tiền: Thọ trì ngũ giới, tu bát quan trai giới, giới đức thanh tịnh, không tạo nghiệp ngũ nghịch, không phạm các lỗi lầm, đem các công đức ấy nguyện vãng sanh Cực Lạc.

Trạng huống lúc lâm chung: Khi gần lâm chung, thấy đức Phật A-di-đà cùng Thánh chúng phóng hào quang sắc vàng đến trước mặt hành giả. Tai nghe Phật thuyết bốn chân lý: Vô thường, Khổ, Không, Vô ngã và tán thán hạnh xuất gia. Hành giả rất hoan hỷ, ngồi trên hoa sen chắp tay lễ Phật, trong chốc lát liền vãng sanh.

Quả chứng đắc khi vãng sanh: Hoa sen liền nở và liền nghe thuyết pháp tán thán 4 chân đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Chứng quả A-la-hán, có đủ Tam minh, Lục thông và Tám môn giải thoát đầy đủ.

Trung phẩm trung sinh

Nhân tạo tác lúc sinh tiền: Hoặc đã từng tu giới bát quán trai, hoặc đã từng thọ giới Sa-di, hoặc đã từng thọ giới cụ túc, mỗi công hạnh trong một ngày một đêm với đầy đủ oai nghi. Đem công đức ấy hồi hướng, cầu nguyện vãng sanh Cực Lạc.

Trạng huống lúc lâm chung: Lúc gần lâm chung, thấy đức Phật A-di-đà phóng hào quang sắc vàng, tay nâng đài sen thất bảo, cùng với Thánh chúng đến trước mắt hành giả, tán thán rằng: “Thiện nam tử! Vì nhà ngươi tùy thuận theo lời Phật dạy nên ta đến rước ngươi.” Hành giả ngồi lên hoa sen. Hoa sen búp lại rồi sinh về Cực Lạc.

Quả chứng đắc khi vãng sanh: Ở trong hồ thất bảo bảy ngày, hoa sen mới nở. Mở mắt chắp tay tán thán đức Phật, nghe pháp hoan hỷ rồi chứng được quả Tu-đà-hoàn. Qua nửa kiếp liền chứng quả A-la-hán.

Trung phẩm hạ sinh

Nhân tạo tác lúc sinh tiền: Hiếu dưỡng cha mẹ, làm các việc nhân từ ở đời.

Trạng huống lúc lâm chung: Khi sắp lâm chung, được gặp Thiện tri thức, được nghe các việc an vui của thế giới đức Phật A-di-đà và được nghe 48 lời đại nguyện của Ngài Pháp Tạng Tỳ-kheo. Nghe xong rồi thì mạng chung. Trong chốc lát, liền vãng sanh Cực Lạc.

Quả chứng đắc khi vãng sanh: Trải qua 7 ngày, gặp đức Quán Thế Âm và đức Đại Thế Chí, nghe pháp hoan hỷ, chứng quả Tu-đà-hoàn. Qua một tiểu kiếp, chứng quả A-la-hán.

c. Ba phẩm bậc hạ

Hạ phẩm thượng sinh

Nhân tạo tác lúc sinh tiền: Tuy không phỉ báng kinh điển Đại thừa, nhưng gây rất nhiều tội lỗi, làm nhiều điều ác ngu si không biết tự hổ.

Trạng huống lúc lâm chung: Lúc gần lâm chung, may mắn được gặp bậc đại Thiện tri thức nói cho nghe danh tự và đề mục 12 bộ kinh Đại thừa. Nhờ nghe tên 12 bộ kinh, trừ diệt được ác nghiệp nặng nề. Theo lời chỉ bảo của vị đại Thiện tri thức, chắp tay niệm danh hiệu Phật. Nhờ sự xưng danh ấy, trừ diệt được nhiều kiếp tội lỗi trong đường sinh tử luân hồi. Bấy giờ hóa Phật, Bồ-tát Quán Thế Âm và Đại Thế Chí đến trước người gần chết, tán thán rằng: “Thiện nam tử! Nhà ngươi nhờ có xưng danh hiệu chư Phật, tội lỗi được tiêu trừ, nên ta đến rước ngươi.” Thấy nghe xong, sinh lòng hoan hỷ, tức thời mạng chung. Liền ngồi hoa sen theo Phật sinh về hồ thất bảo.

Quả chứng đắc khi vãng sanh: Trải qua 49 ngày, hoa sen mới nở. Trong lúc hoa đang nở, đức Quán Thế Âm và đức Đại Thế Chí phóng hào quang, đứng ở trước mặt, nói cho nghe giáo lý thậm thâm của 12 bộ kinh. Nghe rồi tín hiểu phát lòng vô thượng. Trải qua 10 tiểu kiếp, thông hiểu đầy đủ các pháp và thể chứng quả Sơ địa Bồ-tát.
Hạ phẩm trung sinh

Nhân tạo tác lúc sinh tiền: Nghiệp chướng nặng nề. Hủy phạm ngũ giới, bát giới hay cụ túc giới. Ăn cắp vật dụng của thường trú, của hiện tiền Tăng. Thuyết pháp không thanh tịnh, không biết hổ với mình thẹn với người. Tạo các tội như đã kể trên, đáng lẽ phải đọa địa ngục.

Trạng huống lúc lâm chung: Lúc gần lâm chung, tướng địa ngục hiện bày trước mắt. May mắn gặp được Thiện tri thức nói cho nghe oai đức quang minh, thần lực quảng đại của đức Phật A-di-đà và tán thán công năng của Ngũ hương là: Giới hương, Định hương, Huệ hương, Giải thoát hương và Giải thoát tri kiến hương. Nghe xong liền tiêu trừ được tội nặng trong nhiều kiếp sinh tử, lửa dữ địa ngục liền chuyển hóa thành gió mát. Liền đó có mưa hoa rải rác, trên hoa có Phật và Bồ-tát hóa hiện ra để tiếp dẫn. Trong chốc lác, liền được vãng sanh vào hồ sen thất bảo.

Quả chứng đắc khi vãng sanh: Trải qua sáu kiếp, sen nở, đức Quán Thế Âm, đức Đại Thế Chí dùng pháp âm an ủi và nói cho nghe nghĩa lý sâu xa của kinh điển Đại thừa, nghe xong liền phát tâm Vô thượng Bồ-đề.

Hạ phẩm hạ sinh

Nhân tạo tác lúc sinh tiền: Làm các nghiệp bất thiện, gây đủ mọi tội lỗi như phạm tội ngũ nghịch, thập ác. Đã gây các nghiệp ác ấy là phải đọa địa ngục trải qua nhiều kiếp để chịu mọi khổ não.

Trạng huống lúc lâm chung: Lúc gần lâm chung, may gặp được Thiện tri thức nói cho nghe pháp mầu và bảo niệm danh hiệu Phật. Kẻ kia bị khổ não bức bách không thể niệm được. Thiện hữu thương xót khuyến khích và nhất tâm hộ niệm. Tiếng niệm Phật liên tục bất tuyệt, khiến kẻ kia có thể họa theo. Nếu họa niệm theo đủ 10 lần “Nam mô A-di-đà Phật” tức thời nhờ niệm lực ấy mà tội lỗi trong nhiều kiếp được tiêu tan. Lúc mạng chung liền thấy hoa sen vàng như vầng mặt trời hiện ra trước mắt. Trong khoảnh khắc liền vãng sanh thế giới Cực Lạc

Quả chứng đắc khi vãng sanh: Nằm trong hoa sen đủ 12 đại kiếp, sen mới nở đức Quán Thế Âm và đức Đại Thế Chí nói cho nghe thật tướng của các pháp và dạy cho phép diệt trừ tội chướng. Nghe xong, sinh tâm hoan hỷ, phát tâm vô thượng Bồ-đề.

Ba bậc và chín phẩm tu chứng ở cõi Tịnh độ có khác nhau là do công phu tu tập sâu cạn không đồng. Tuy nhiên, một khi đã vãng sanh về ao thất bảo, hóa sinh trong hoa sen hành giả sẽ không còn sa vào ác đạo, dự ngôi bất thoái, an vui vĩnh viễn cho đến ngày viên thành Phật quả. Nói rõ phẩm vị tu hành để chúng sanh từ nơi đây nhận biết nhân tạo tác hiện thời và quả vị chứng đắc trong tương lai. Người niệm Phật rất nên lưu tâm!

III. Phương pháp tu tập để vãng sanh cõi Tịnh độ của Phật A-di-đà

Trong kinh Quán Vô Lượng Thọ, đức Thế Tôn dạy cho thái hậu Vi Đề Hy rằng: “Này Vi Đề Hy! Người muốn sang nước Cực Lạc ấy nên tu ba phước. Một là hiếu nuôi cha mẹ, kính thờ bực Sư trưởng, có tâm nhân từ chẳng giết hại và tu tập mười nghiệp lành.Hai là thọ trì Tam quy, đầy đủ các cấm giới và chẳng phạm oai nghi. Ba là phát tâm Bồ-đề, sâu tin nhân quả, đọc tụng kinh điển Đại thừa và khuyên dạy sách tấn người tu hành. Ba sự như vậy gọi là tịnh nghiệp. Này ViĐề Hy! Nay bà có biết chăng?Ba tịnh nghiệp ấy là chánh nhân tịnh nghiệp của tam thế chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại.”

Lời đức Thế Tôn đã xác quyết, chánh nhân vãng sanh Tịnh độ chính là đây.Mười phương ba đời chư Phật cũng từ chánh nhân này thành tựu đạo quả, vậy phàm phu như chúng ta không thể không y giáo phụng hành.Chánh nhân ấy nói rộng là như vậy, nhưng tóm gọn lại chỉ gồm ba điều “Tín, Nguyện và Hạnh”.

1. Niềm tin chân chính (Tín tư lương)

Tín chính là cửa ngõ để vào đạo giải thoát.Không có niềm tin chắc chắn không thành tựu được việc gì. Người thế gian kinh doanh buôn bán quan trọng vẫn là tin tưởng, tín nhiệm lẫn nhau. Sự ngờ vực sẽ dẫn đến chia rẽ, khoảng cách, bất hòa, nghi kỵ, là nguyên nhân gia đình đổ vỡ, xã hội bất an, thế giới chiến tranh loạn lạc.

Trong giáo lý nhà Phật, hầu hết các pháp môn tu đều lấy “Tín” làm nền tảng như: “Tín, Tấn, Niệm, Định, Tuệ”. Riêng với người thực hành pháp môn Tịnh độ, “Tín” lại được xem như căn bản của con đường tu tập.

Trong kinh A-di-đà, đức Thế Tôn đã cho rằng pháp môn Tịnh độ là “nan tín chi pháp” tức là pháp môn rất khó tin. Vì sao? Vì dễ tu chứng! Vì sao dễ tu chứng?Vì ngoài tự lực của mỗi chúng sanh còn có tha lực của chư Phật gia trì.Tự lực của chúng sanh có hữu hạn nhưng đối với tha lực của chư Phật vô hạn vô cùng không thể dùng trí phàm phu đo lường được. Thế nên người không tin pháp môn này tức không tin vào năng lực vô biên của chư Phật, cũng chính là không tin vào lời chắc thật của Phật Thích-ca Mâu-ni và hạnh nguyện của Phật A-di-đà.

Vậy muốn vãng sanh Tịnh độ cần phá bỏ lưới nghi “nghi thời hoa không nở”, một lòng chánh tín nương theo lời Phật chỉ dạy, làm kim chỉ nam trực thẳng đến Tây phương Cực Lạc.

Tín được chia làm hai: chánh tín và mê tín. Đối với người tu Tịnh độ không tin nhân quả, không tin lời Phật dạy, không tin có cõi Tịnh độ của Phật A-di-đà… đó là mê tín. Ngược lại là chánh tín.

Trong vãng sanh Luận, Bồ-tát Thế Thân dạy rằng: “Y theo quán sát công đức chân thật cõi Tịnh độ mà sinh lòng tin.” Vậy công đức chân thật ấy chính là:

a. Tin lời đức Phật Thích-ca không hư dối
Phật Thích-ca Mâu-ni là đức Phật của lịch sử, điều này đã được minh chứng.Lời dạy của Ngài vẫn còn vẹn nguyên giá trị và ảnh hưởng lớn trong đời sống hiện tại.Người quân tử lấy sự thật làm thước đo giá trị đạo đức ở đời, còn Thế Tôn là bậc đại Thánh trong các hàng Thánh há nào lại lừa dối chúng sanh.Thế nên lời của Thế Tôn nói hoàn toàn không có hư dối.

b. Tin cõi Tịnh độ và lời nguyện của đức Phật A-di-đà hoàn toàn chắc thật

Trong thế gian có vô số uế độ vì có vô số chúng sanh tạo nghiệp sinh tử luân hồi mà cõi Ta-bà là một trong số đó. Do đó vô số Tịnh độ xuất hiện vì hạnh nguyện chư Phật trong 10 phương 3 đời vẫn luôn bao trùm khắp không gian, thời gian mà Tịnh độ của Phật A-di-đà là một.
Lời đại nguyện thâm sâu được phát ra từ lòng bi mẫn của vị Pháp Tạng Tỳ-kheo khi còn ở nhân địa tu hành Phật quả được đức Phật nói rõ trong phần 2 của kinh Vô Lượng Thọ: “Nhân duyên Ngài Tỳ-kheo Pháp Tạng phát 48 đại nguyện trước đấng Thế Tôn và nhờ công đức tu tập thù thắng, đức hạnh thâm mật, Ngài thành tựu Pháp thân hiệu A-di-đà, thể hiện cảnh giới như tâm nguyện và ngự trị cõi nước tên là Cực Lạc ở phương Tây.”

c. Tin chư Bồ-tát, chư Hiền Thánh tăng đều gia trì hộ niệm

Cõi Tịnh độ của Phật A-di-đà có vô lượng Bồ-tát, Thanh văn.Trong đó, đức Quán Thế Âm và đức Đại Thế Chí là bậc Bồ-tát thượng thủ, trợ giúp đức Phật giáo hóa chúng sanh. Tâm nguyện của các Ngài rộng lớn không gì sánh bằng, kinh Quán Vô Lượng Thọ, Phật Thích-ca dạy trong phần quán tưởng về đức Quán Thế Âm: “Quán Thế Âm Bồ-tát ấy chỉ nghe danh hiệu còn được phước vô lượng huống là quán kỹ.” chúng sanh chỉ cần nghe tên Bồ-tát thôi phước đức đã không thể nghĩ bàn.Vì sao?Vì công đức của chư Bồ-tát, Thanh văn ở cõi Tịnh độ là vô lượng, công đức ấy không khác gì công đức của Phật A-di-đà.

d. Tin nhân quả
Định luật này bao trùm khắp vũ trụ vạn hữu.Người tu Tịnh độ nếu xa lìa nhân quả mười phần công đức không được một.Thế nên nhân nào quả đó, niệm Phật, quán tưởng cõi Phật là nhân, vãng sanh Tịnh độ thành Phật là quả.Nhân quả tuy muôn trùng nhưng tóm gọn trong câu “Thiện nhân thiện quả, ác nhân ác quả”.

e. Tin bản thân có thể vãng sanh, thành tựu Phật quả
Đức Thế Tôn đã dạy “Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành”. Đó là lời thọ ký, lời xác quyết đầy tuệ giác của đức Thích-ca Mâu-ni. Chúng ta thường nghe “Phật, chúng sanh tánh thường rỗng lặng”, tánh rỗng lặng chính là Phật tánh, là Chân tâm thường trú, là Diệu giác tánh, là Bản lai diện mục cũng chính là Phật A-di-đà trong mỗi chúng sanh. Phật đã thành vì Ngài nhận ra được bản tâm thanh tịnh đoạn trừ phiền não chướng, sở tri chướng, tự độ, độ tha, nên viên thành Vô thượng chánh giác.chúng sanh vì lấy ba độc tham, sân, si làm cam lồ nên trôi lăn trong ưu bi, khổ não. Nay nương nguyện lực Phật, nương tha lực Phật, tin tự lực chính mình nỗ lực tiến tu, gieo tịnh nhân, trồng tịnh nghiệp, niệm hồng danh Phật, thiết tha cầu nguyện vãng sanh lo gì không thành Phật.

2. Chí nguyện chăn chính, thiết tha (Nguyện tư lương)

Nguyện chính là động lực thúc đẩy người niệm Phật tinh cần ngày đêm không thoái chuyển vì mục tiêu cứu cánh vãng sanh Tịnh độ, thành tựu Phật quả vì lợi lạc cho chúng hữu tình. Nếu nguyện không tha thiết, tâm Bồ-đề dễ bị lay chuyển, nhờ có nguyện mới giữ được đạo tâm, trau dồi đạo lực, viên thành đạo quả. Cũng như người cưỡi ngựa nắm vững dây cương, khéo léo điều phục làm chủ trên lưng ngựa mà không bị té ngã.

Đức Phật A-di-đà lúc còn là Pháp Tạng Tỳ-kheo cũng nhờ nơi 48 đại nguyện mà thành lập nên cõi Tịnh độ Tây phương. Đức Thích-ca Mâu-ni khi còn là vị Thái tử trải qua 6 năm khổ hạnh không có kết quả, vượt sông Ni Liên Thiền đến dưới cội Bồ-đề phát lời thệ nguyện “Nếu không thành Phật thề không đứng dậy”. Đức Quán Thế Âm vì muốn thành tựu hạnh nguyện độ tha đã phát 12 lời thệ nguyện rộng cứu chúng sanh.Từ đây cho thấy, xa rời thệ nguyện không thể nào thành tựu Phật đạo.

chúng sanh muốn vãng sanh Tịnh độ nên ngày đêm thiết tha phát nguyện. Nguyện này phải dựa trên tâm Bồ-đề, vì giá trị của tâm Bồ-đề là vô cùng tận được Ngài Tịch Thiên dạy rõ trong Nhập Bồ-tát Hạnh:

“Bồ-đề tâm cam lồ bất tử
Vô tận kho trừ khử đói nghèo

Dược phương chữa bệnh cheo leo
Bóng cây che mát nhóc nheo hữu tình.”

Lại nữa, trong kinh Quán Vô Lượng Thọ,đức Phật bảo A-nan và Vi Đề Hy: “Người sinh Cực Lạc thế giới, bậc Thượng phẩm Thượng sinh ấy, nếu có chúng sanh nguyện sinh Cực Lạc thế giới phát ba thứ tâm liền được vãng sanh. Những gì là ba tâm?Một là chí thành tâm, hai là thâm tâm và ba là hồi hướng phát nguyện tâm.Người đủ ba tâm này ắt sinh Cực Lạc thế giới.” Ba tâm ấy được gồm thâu trong hai phần:

a. Bồ-đề tâm phát nguyện
Vào buổi sáng trước khi bước xuống giường, hoặc trước thời công phu sáng, người niệm Phật nên ngồi ngay ngắn, chắp tay thành kính hướng về bàn Phật hoặc hướng tây khởi lên động lực làm sống dậy Bồ-đề tâm nguyện theo phương pháp 6 nhân 1 quả:

· Tất cả chúng sanh trong vô lượng kiếp đến nay đều là cha mẹ, thân thuộc của con.

· Cha mẹ đã từng cưu mang và nuôi dạy con bằng mọi hình thức tốt nhất có thể.

· Con xin ghi nhớ ân đức mà cha mẹ đã dành cho con.

· Con nguyện báo đáp ân đức cao đẹp của cha mẹ.

· Hiện giờ chúng sanh đang trôi lăn trong vòng sinh tử như người mẹ thân thiết của con đang bị cuốn trôi trong dòng nước xiết, con nguyện cứu họ thoát khỏi dòng sinh tử khổ đau ấy.

· Con nguyện đem mọi phương tiện như chư Phật đưa họ đến an vui vĩnh cửu.

· Con xin gánh chịu mọi khổ đau của chúng sanh và nguyện đem an vui mà con có được dù chỉ là nhỏ bé dâng tặng cho họ.

Từ 6 nhân này nếu được huân tập thuần thục sẽ thành tựu quả vị Bồ-đề tâm vô thượng tức gồm đầy đủ “thành tâm và thâm tâm”. Đây chính là điểm then chốt trong các pháp tu theo Đại thừa giáo điển.

b. Hồi hướng phát nguyện tâm
Trước khi ngủ hoặc sau các thời công phu tụng kinh niệm Phật nên đọc bài kệ:

Con xin nguyện quay về nương tựa Phật

Con xin nguyện quay về nương tựa Pháp

Con xin nguyện quay về nương tựa Tăng

Con xin nguyện quay về nương tựa chư Phật, chư Thánh chúng cõi Tây phương Cực Lạc.

Từ ngày hôm nay cho đến ngày giải thoát,

Với công đức có được,

Nhờ bố thí, trì giới, tụng kinh, niệm Phật…

Và các hạnh lành khác,

Con xin nguyện hồi hướng về cõi Tây phương Cực Lạc,

Nguyện con sớm thành tựu Phật quả,

Vì lợi ích cho chúng hữu tình.

Đây là bài phát nguyện dựa theo lời chỉ dạy trong quyển Giải Thoát Trong Lòng Bàn Tay của bậc đạo sư Pabongkha vĩ đại. Với cách thức này, chủng tử Phật sẽ luôn tăng trưởng và được duy trì qua nhiều kiếp sống về sau. Nhờ đặt hết tâm lực vào lời nguyện, từ sáng đến tối người niệm Phật sẽ luôn được chư Phật gia hộ, vượt qua chướng ngại, gặp nhiều thuận duyên trên bước đường tu tập viễn ly mọi khổ não đạt được an lạc, hạnh phúc ngay trong lúc hiện tiền, tương lai chắc chắn sẽ vãng sanh Tịnh độ.

3. Phương pháp hành trì (Hạnh tư lương)

Nếu “Tín” là sự xác quyết con đường đi hoàn toàn chân thật, “Nguyện” là động lực để tiến hành thì “Hạnh” chính là bắt đầu sự khởi hành.

Đối với người tu Tịnh độ tư lương “Hạnh” chính là sự gia công tinh tấn hành trì liên tục không gián đoạn. Phương pháp tu tập pháp môn Tịnh độ đã được đức Phật Thích-ca Mâu-ni dạy rất rõ trong bản kinh Quán Vô Lượng Thọ, kinh A-di-đà, kinh Vô Lượng Thọ và vãng sanh luận do Bồ-tát Thế Thân trước thuật. Nay chỉ khái lược qua những điểm chính yếu sau:

a. Phương pháp phổ quát
Đây là cách thức tu tập dành cho tất cả mọi căn cơ. Người hành trì những pháp này sẽ tạo nhân Tịnh độ để quyết định vãng sanh trong tương lai và dự vào phần hạ phẩm đến trung phẩm tùy theo khả năng hành trì.

Quy y Tam bảo và quy y chư Phật, Thánh chúng cõi Tịnh độ
Quay về nương tựa Phật
Quay về nương tựa Pháp
Quay về nương tựa Tăng
Quay về nương tựa Phật và Thánh chúng cõi Cực Lạc

Thọ trì năm giới tại gia
Không sát sinh

Không trộm cắp
Không tà dâm
Không nói dối
Không sử dụng các chất gây say

Tín tâm niệm danh hiệu Phật
Dùng niềm tin chân chính thiết tha chuyên niệm hồng danh “Nam mô A-di-đà Phật.”

Ngày đêm tinh tấn không khởi tạp niệm, hành trì đến khi nhất tâm bất loạn.
Các phương pháp niệm Phật.

Trì danh niệm Phật: Nghĩa là chuyên trì tụng danh hiệu Phật. Phương pháp này được chia ra nhiều cách niệm tương ứng với từng người trong từng hoàn cảnh cụ thể như: niệm Phật cao tiếng, niệm Phật kim cương, niệm Phật bằng tràng hạt, niệm Phật theo số lượng, mặc niệm niệm Phật… đây được xem như là những cách niệm Phật phổ thông nhất.

Thật tướng niệm Phật: Nghĩa là quán tưởng thật tướng của Phật. Kết quả của phương pháp này là Chân như Tam muội, cũng gọi là Nhất hạnh Tam muội nghĩa là chánh định, chỉ cho cảnh giới đạt được trong định khi sự tu tập đã thành tựu. Phương pháp này chỉ thích hợp với hạng thượng căn, hạng trung, hạ căn không tương thích được.

Quán tưởng niệm Phật: Nghĩa là quán tưởng cảnh giới Cực Lạc của đức Phật A-di-đà. Phương pháp này y cứ vào kinh Quán Vô Lượng Thọ mà lập.

Phương pháp niệm Phật thích hợp mọi căn cơ

– Ý nghĩa
Trong ba cách niệm Phật trên, phương pháp “Trì danh niệm Phật” phù hợp mọi căn cơ.Từ hàng thượng căn thông minh uyên bác cho đến kẻ hạ căn một chữ không thông. Từ người giàu sang đến kẻ khốn cùng, từ người trẻ tuổi đến cụ già tóc bạc… Vì sao?Vì phương pháp này lấy danh hiệu “Nam mô A-di-đà Phật” làm đề mục.Dùng câu Phật hiệu buộc nơi chánh niệm, nhớ nghĩ rõ ràng làm chủ tâm ý không để tạp niệm có cơ hội xen vào.

Với câu Phật hiệu bất kỳ ở nơi nào cũng có thể niệm được, nhưng “niệm” là phải từ tâm lưu xuất, không lơ là, tạp loạn.Hành giả luôn đặt ba nghiệp của mình vào hồng danh Phật. Miệng niệm “Nam mô A-di-đà Phật” một cách khoan thai, không nhanh không chậm, không quá to không quá nhỏ, tai lắng nghe tiếng niệm rõ ràng từng chữ không nhầm lẫn, ý trụ vào câu Phật hiệu không sinh tâm dao động, lăng xăng, ví như người bưng bát, chú tâm hứng từng giọt cam lồ không để rơi mất.

Theo cách này hành trì miên mật, người niệm Phật đến khi thuần thục, ba nghiệp thân, miệng, ý đêm ngày không xa lìa câu Phật hiệu, đạt đến sự thanh tịnh hoàn toàn, nhờ đó mà hiện tiền được an lạc, tương lai quyết định vãng sanh Tịnh độ.

– Phương pháp hành trì

Dưới đây là một số phương pháp hành trì thông dụng thích hợp với tất cả căn cơ trình độ.Thực hành miên mật sẽ đem đến kết quả không thể nghĩ bàn. Nương vào công đức niệm Phật của tự thân và tha lực của chư Phật, hành giả chắc chắn được an lạc trong hiện đời, lúc lâm chung thân ngồi trên sen báu được chư Phật, Thánh chúng tiếp dẫn vãng sanh Tịnh độ.

– Niệm Phật bằng tràng hạt (chuỗi hạt)

Những người tâm khó tập trung nên dùng tràng hạt để cột tâm vào câu niệm Phật.Phương pháp này thông dụng cho mọi độ tuổi, trong mọi hoàn cảnh.Có thể dùng chuỗi 18 hạt cho đến 108 hạt.Mỗi một hạt niệm một câu Phật hiệu.Người có thời gian cố định mỗi khi niệm hết một tràng rồi dùng một hạt đậu hoặc ngô (bắp) để ghi số lượng. Tay lần chuỗi, miệng niệm danh hiệu Phật rõ ràng, khoan thai, tâm nhớ nghĩ. Niệm liên tục, lâu ngày tâm sẽ được an định, tạp loạn nếu khởi lên sẽ bị câu Phật hiệu ngăn lại và tan biến.

– Niệm Phật theo tiếng nhạc

Người tâm dễ bị buồn ngủ có thể kết hợp niệm Phật lớn tiếng theo âm điệu. Nhờ âm thanh có thể đưa câu niệm Phật dễ dàng đi vào trong tâm. Với cách này, miệng niệm lớn (như đang hát một bản nhạc theo giai điệu yêu thích) tai lắng nghe âm thanh của tiếng niệm Phật, tâm sẽ được thoải mái, phấn chấn, xoa dịu cơn buồn ngủ, thư giản tinh thần, giảm thiểu sự bực tức, chán nản do áp lực công việc, học tập đem lại. Đây cũng là cách thư giản bổ ích, không tốn kém, đồng thời gieo được chánh nhân vãng sanh cõi Tịnh độ.

– Niệm Phật mặc niệm (niệm thầm)

Người thường làm công việc văn phòng, giao tiếp, di chuyển nhiều trên các loại phương tiện, hoặc gia đình chưa hiểu đạo, không có không gian niệm Phật riêng có thể áp dụng niệm Phật mặc niệm. Cách này miệng tuy không niệm ra tiếng, nhưng tâm lúc nào cũng rõ ràng, đi, đứng, nằm ngồi đều nhớ danh hiệu Phật. Trong các thời, dù niệm nhiều hay ít cũng đều hồi hướng cầu vãng sanh Tịnh độ.

– Niệm Phật đại chúng

Cách này áp dụng trong trường hợp niệm Phật tập thể. Phương tiện cần có gồm: một mõ, một khánh, một người đánh khánh, một người niệm Phật có chất giọng khỏe, rõ ràng, đồng thời giữ nhịp mõ làm trường canh.

Cách niệm: hai nhịp khánh đi kèm hai chữ “Nam mô”, một nhịp mõ đi kèm một chữ “A”, cũng thế áp dụng cho chữ “Di Đà” và chữ “Phật”. Người chủ xướng niệm ba câu liên tiếp, sau khi dứt đại chúng đồng niệm tiếp ba câu giống như trên. Theo cách này, đại chúng nương theo người chủ xướng, nhịp khánh và mõ, miệng niệm to, rành rẽ, tai lắng nghe, tâm an trụ trong câu Phật hiệu.

– Niệm Phật kinh hành

Cách này áp dụng cho người không thể ngồi lâu, nếu kết hợp với niệm Phật đại chúng sẽ tạo nên không gian niệm Phật hoàn hảo.

Cách niệm: người niệm Phật tùy theo sức khỏe có thể ngồi từ 5 phút cho đến lâu hơn. Trong khi cơ thể mệt mỏi, sắp rơi vào trạng thái ngủ gật, nên đứng dậy đi kinh hành. Miệng niệm “Nam mô” chân trái đồng thời bước theo và niệm chữ “A” chân phải cùng lúc bước theo. Cứ như vậy áp dụng cho chữ “Di Đà” và chữ “Phật”.Đây được xem như bài tập thể dục cho toàn bộ cơ thể mà không mất tiền bạc lại được công đức vô lượng, làm nhân lành cho sự vãng sanh cõi Cực Lạc. Nói chung tùy theo hoàn cảnh cụ thể mà áp dụng cách niệm Phật thích hợp, nhưng chung quy phải lấy niềm tin chân chính, chí nguyện thiết tha và hành trì miên mật làm tư lương cho quá trình tu niệm.

Hiếu dưỡng cha mẹ
Sống gương mẫu, vâng lời, kính thờ, lo lắng chăm sóc sức khỏe và hướng dẫn cha mẹ quy hướng Tam bảo, niệm hồng danh Phật.

Cha mẹ qua đời siêng tu phước lành hồi hướng cho cha mẹ.

Ngăn ngừa mười điều ác và tu mười điều lành:
Kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo, đức Phật Thích-ca đã dạy cho Long Vương rằng: “Mười thiện nghiệp này có công năng làm cho các pháp như Thập lực, Tứ vô sở úy, Thập bát bất cộng, tất cả các pháp mà Phật đã chứng, thảy đều được viên mãn. Vì vậy nên các người cần phải tu học thập thiện.

Này Long Vương! Ví như tất cả thành ấp xóm làm đều y vào đại địa mà an trú, tất cả cỏ cây rừng rú đều y vào đại địa mà sinh trưởng, thì mười điều thiện này cũng lại như vậy. Tất cả thiên nhơn đều y vào “đại địa” thập thiện mà thành lập, tất cả Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát và tất cả Phật pháp cũng đều y vào “đại địa” thập thiện mà thành tựu được các hạnh Bồ-đề.” Những gì là mười:

Thân có 3 việc: không sát sinh, không trộm cắp, không dâm dục (nếu tại gia thì không tà dâm).

Miệng có 4 việc: không nói dối, không nói lưỡi hai chiều, không nói lời ác độc gây chia rẽ, không nói lời thêu dệt mê hoặc lòng người.

Ý nghĩ có 3 việc: không tham dục, không sân hận, không si mê.

Hồi hướng công đức lành về cõi Tịnh độ
Tất cả những hạnh lành trên nên hồi hướng hết về Tây phương Cực Lạc nguyện được vãng sanh, thành ngôi Chánh giác.

Phương pháp chuyên sâu
Đây là cách thức tu tập dành cho các hạng có căn trí thông lợi.Thực hành nhân tịnh này trong khoảnh khắc hành giả sẽ gặp Phật, thể nhập cảnh giới Tịnh độ ngay hiện tiền và quả vị vãng sanh Tịnh độ chắc chắn ở ngôi Thượng phẩm.

Ngoài việc thực hành thuần thục phương pháp phổ quát, người niệm Phật cần nên tiến sâu vào cảnh giới Tịnh độ bằng phương pháp “Chỉ và Quán” căn cứ vào kinh Quán Vô Lượng Thọ và vãng sanh Tịnh độ luận giảng yếu do Bồ-tát Thế Thân trước tác, Ngài Thái Hư đại sư giảng. Phương pháp thực hiện bao gồm:

Tán thán Phật A-di-đà và chư Thánh chúng cõi Cực Lạc

Ý nghĩa
Tán thán tức là ca ngợi công đức của chư Phật.Cách đơn giản nhất là xưng tán danh hiệu Phật.Vì Phật A-di-đà bao gồm đầy đủ ánh sáng vô lượng, thọ mạng vô lượng và công đức vô lượng.Dùng lối xưng tán này để ghi nhớ y báo và chánh báo của Phật cũng chính là sự trang nghiêm nơi cõi Tịnh độ.

Điều này thật sự cần thiết vì đây là nhân để sau khi sinh về Cực Lạc được vào trong Thánh chúng tham dự pháp hội.vãng sanh Tịnh độ luận giảng yếu chép: “Có người sinh về Cực Lạc mà không được vào hội chúng là do nghi tâm niệm Phật, tuy sinh về Cực Lạc, song phải chịu 500 đại kiếp không có thể vào đại hội chúng nghe giảng Phật pháp.”

Phương pháp xưng tán
Dựa trên bài kệ sau, hành giả thân tướng trang nghiêm, chấp tay cung kính, miệng xưng tán lời này:

Sắc thân Như Lai đẹp

Thế gian không ai bằng

Chẳng sánh, chẳng nghĩ bàn

Nên nay con đảnh lễ

Tướng Phật đẹp vô cùng

Trí tuệ Phật cũng thế

Tất cả Pháp thường trụ

Vì thế con quy y

Trí lớn nguyện lực lớn

Độ khắp cả quần sinh

Khiến bỏ thân nóng khổ

Sinh kia nước mát vui

Con nay sạch ba nghiệp

Quy y và lễ tán

Nguyện con cùng chúng sanh

Đồng sinh về Tịnh Độ.

Úm phạ nhật la vật (3 lần)

Lễ bái Phật A-di-đà và chư Thánh chúng cõi Tây phương Cực Lạc

Ý nghĩa
Đem thân, miệng, ý thanh tịnh năm vóc sát đất (trán, 2 tay và 2 chân) cung kính đảnh lễ chư Phật, Bồ-tát và Thánh chúng nơi cõi Cực Lạc. Khi trán vừa chạm đất liền nghĩ mặt đất hóa thành cõi Tịnh với bảy báu trang nghiêm ngay đó tâm người lễ Phật đã nhập vào cảnh giới Cực Lạc.

Phương pháp lễ lạy
Sử dụng 9 lạy quy mạng cõi Cực Lạc

– Nhất tâm quy mạng lễ, A-di-đà Như Lai, Thân diệu pháp thanh tịnh, Thường tịch quang Tịnh độ, khắp Pháp giới chư Phật. (1 lễ).

– Nhất tâm quy mạng lễ, A-di-đà Như Lai, Thân tướng hải vi trần, Thật báo trang nghiêm độ, khắp Pháp giới chư Phật. (1 lễ).

– Nhất tâm quy mạng lễ, A-di-đà Như Lai, Thân trang nghiêm giải thoát, Phương tiện Thánh cư độ, khắp Pháp giới chư Phật. (1 lễ).

– Nhất tâm quy mạng lễ, A-di-đà Như Lai, Thân căn giới Đại thừa, cõi An lạc phương Tây, khắp Pháp giới chư Phật. (1 lễ).

– Nhất tâm quy mạng lễ, A-di-đà Như Lai, Thân hóa đến mười phương, cõi An lạc phương Tây, khắp Pháp giới chư Phật. (1 lễ).

– Nhất tâm quy mạng lễ, Ba kinh Giáo, Hành, Lý, tuyên dương cả ý chính, cõi An lạc phương Tây, khắp Pháp giới Tôn Pháp. (1 lễ).

– Nhất tâm quy mạng lễ, Bồ-tát Quán Thế Âm, Thân tử kim muôn ức, cõi An lạc phương Tây, khắp Pháp giới Bồ-tát. (1 lễ).

– Nhất tâm quy mạng lễ, Bồ-tát Đại Thế Chí, Thân trí sáng vô biên, cõi An lạc phương Tây, khắp Pháp giới Bồ-tát. (1 lễ).

– Nhất tâm quy mạng lễ, Thánh chúng như biển lớn, thân hai nghiêm phước trí, cõi An lạc phương Tây, khắp Pháp giới Thánh chúng (1 lễ).

– Nay con vì bốn ân, ba cõi cùng chúng sanh trong ba cõi, nguyện dứt trừ ba chướng, nên quy mạng sám hối. (1 lễ)

Một lòng chuyên niệm Phật cầu sinh Tịnh độ

Ý nghĩa
Tâm ý chúng sanh phần nhiều dao động theonhững âm thanh, hình sắc bên ngoài khởi lên phiền não, tham chấp. Nay dùng hồng danh “Nam mô A-di-đà Phật” cột tâm tán loạn, đưa tâm về một chỗ dừng hẳn các tạp niệm.

Trong khoảng sát-na chuyên tâm buộc niệm không để tán thất đó là nhất tâm cũng gọi là “Chỉ”.vãng sanh Tịnh độ luận giảng yếu chép: “Một lòng chuyên niệm gọi là hành Chỉ, do Chỉ làm ngưng dứt tán loạn tạp tâm được liền tịch mịch. Nên Cổ đức nói: Biết dừng rồi sau mới định, định rồi sau mới tịnh.” Do đắc được “Chỉ” nên vào chánh định gọi là tam muội liền vào được cõi an lạc của Phật A-di-đà.

Phương pháp chuyên niệm
Sử dụng phương pháp trì danh niệm Phật để đi vào “Chỉ”. Nghĩa là miệng niệm, tai lắng nghe và ý nhớ nghĩ danh hiệu Phật một cách rõ ràng.

Nhớ rõ ý nghĩa hồng danh Phật
Danh hiệu Phật, tiếng Phạn là Amitabha, dịch âm là A-di-đà có nghĩa là Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Quang, Vô Lượng Công Đức nhưng chủ yếu là Vô Lượng Thọ, nên hầu hết các kinh đều dịch Vô Lượng Thọ. Vậy “Nam mo Amitabha Buddha” hay “Nam mô A-di-đà Phật” có nghĩa là:

“Nam Mô”: nghĩa làKính lễ, Quy y, Phụng thờ, Cứu ngã, Độ ngã, Quy mạng

“A”: nghĩa là Không, là Vô

“Di Đà”: nghĩa là Lượng

“Phật”: nghĩa là Giác giả.

Tổng hợp 4 chữ lại gọi là “Quy mạng đấng Giác ngộ Vô lượng”.

Lại nữa chữ “Vô lượng” rất rộng: Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Quang, Vô Lượng Công Đức, Vô Lượng Thần Thông, Vô Lượng Từ Bi, Vô Lượng Thiện Xảo… Tóm lại, niệm “Nam mô A-di-đà Phật” là bao hàm đầy đủ ý nghĩa.

Nhất tâm không loạn động

Người tu niệm Phật để đạt nhất tâm trước tiên cần cột tâm vào câu Phật hiệu.Tạp loạn nếu khởi lên liền dùng Phật hiệu ngăn không cho vào. Niệm này nối tiếp niệm kia không gián đoạn, ngày ngày chuyên niệm, tháng tháng không quên lần hồi sẽ được “Tịnh Chỉ”. Ngay khi ấy tâm thể vắng lặng như nước trong hồ không bị khuấy động, vạn vật soi vào đều nhận biết rõ.

Chuyên niệm quán sát cõi Tịnh độ trang nghiêm vi diệu

Ý nghĩa
Đây là từ nơi “Chỉ” khởi sinh “Quán”. Pháp “Quán” lại nương vào kinh Quán Vô Lượng Thọ thiết lập còn gọi là “Quán tưởng niệm Phật” nghĩa là căn cứ trên y báo, chánh báo nơi cõi Tịnh độ quán tưởng đến thuần thục thì nhắm mắt, mở mắt, đi, đứng, nằm, ngồi đều ở nơi cảnh Cực Lạc. Nhờ pháp quán này người tu Tịnh độ có thể chuyển cảnh Ta-bà uế trược thành cảnh an lạc trang nghiêm. Trong giờ phút hiện tại đã thọ dụng được “Thật báo trang nghiêm độ”, vị lai lo gì không đắc quả Vô thượng Bồ-đề.

Phương pháp quán tưởng
Trong kinh Quán Vô Lượng Thọ chia ra làm 16 phép quán tương ứng với 16 giai đoạn dựa trên công đức trang nghiêm thù thắng của y và chánh báo. Kinh dạy rằng: “Người muốn tưởng nước nên biết Cực Lạc thế giới có ao nước bát công đức. Mỗi mỗi ao nước bảy báu làm thành.Báu ấy nhu nhuyến từ như ý châu vương sinh, chia làm mười bốn chi, mỗi mỗi chi làm sắc đẹp bảy báu. Hoàng kim làm lòng ao. Dưới lòng ao có kim cương nhiều màu làm cát tráng đáy.

Trong nước mỗi mỗi ao báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần. Nước ma-ni chảy rót trong khoảng lá, theo thân cây sen mà lên xuống, phát ra âm thanh vi diệu diễn nói Khổ, Không, Vô thường, Vô ngã, các Ba-la-mật, còn có tiếng tán thán tướng hảo của chư Phật. Như ý châu vương phóng ra ánh sáng vi diệu màu hoàng kim. Ánh sáng ấy hóa ra các giống chim màu trăm báu, hòa hót êm nhã, thường tán thán niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.Đây là tưởng nước bát công đức gọi là pháp quán thứ năm.”

Vận dụng lòng đại từ bi quán sát tất cả khổ não của chúng sanh, bằng nguyện lực trở vào vườn sinh tử, rừng phiền não, hiển lộ thần thông, đến chỗ giáo hóa, khiến tất cả chúng sanh xa lìa đường dữ, sinh về cõi Tịnh

Ý nghĩa
Phần thứ năm này chính là phần hồi hướng.Việc hồi hướng công đức tán thán, lễ bái, chuyên niệm hồng danh và quán tưởng về cõi Tịnh độ đó là Sự hồi hướng, còn Lý hồi hướng chính là công hạnh độ tha của chư Bồ-tát.

Hành giả tuy chưa hoàn toàn thể nhập vào cảnh giới Tịnh độ nhưng cấp độ tu tập ngày một tăng dần tương xứng với quả vị của chư Bồ-tát, Thanh văn trong cõi Phật.

Giai đoạn này hành giả có thể dùng tâm từ bi, phương tiện thiện xảo và trí tuệ chứng đắc để giáo hóa khiến chúng sanh xa hẳn đường tà, quay về nẻo chánh, tu nhân tịnh nghiệp, cầu sinh Cực Lạc.

Phương pháp hành trì
Lòng từ bi của chư Bồ-tát là luôn hướng về chúng sanh phục vụ không biết mệt nhọc, không ngằn mé, hạn lượng. Nơi nào Phật pháp cần Bồ-tát đến, nơi nào chúng sanh cần Bồ-tát đi, không kể gian lao, không từ khó nhọc. Đây chính là diệu dụng của chư Bồ-tát tại thế gian.

Bồ-tát ngoài việc tự tu cho mình đồng thời lo nghĩ đến chúng sanh, lấy Ta-bà làm đạo tràng tự độ, độ tha mong viên thành Phật quả. Vì thế Bồ-tát có mặt khắp mọi nơi: nhà trường, bệnh viện, công sở, trên xe buýt và ngay trong gia đình.

Với lòng bi mẫn, Bồ-tát luôn xem chúng sanh như là bậc thiện tri thức, hết lòng tôn kính phục vụ.Vì nếu không có chúng sanh, Bồ-tát cũng không thể nào viên mãn Bồ-tát hạnh.Cũng ví như người học làm thầy thuốc là vì muốn cứu giúp bệnh nhân, nhưng nếu không có bệnh nhân thì thầy thuốc cũng không có nghĩa gì.Thế nên Bồ-tát tại gia cần tâm nguyện tận trừ thống khổ cho chúng sanh. Ngày cũng như đêm giữ gìn thệ nguyện:

“chúng sanh vô biên thệ nguyện độ

Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn

Pháp môn vô lượng thệ nguyện học

Phước, Trí vô cùng thệ nguyện tu

Như Lai vô số thệ phụng sự

Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.”

Lập thệ xong Bồ-tát cần gia công dụng hạnh để đưa thệ nguyện vào đời sống tu hành và hóa độ chúng sanh bằng cách thực hành 6 pháp Ba-la-mật: “Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ.” Đây là phương cách thực hành để Sự và Lý hồi hướng dung thông.

Hoàn thành năm điều nêu trên tức là Bồ-tát đã viên thành Phật quả, đầy đủ oai đức, tự tại trong sinh tử, tùy thuận nhân duyên, khéo độ chúng sanh, lìa khổ Ta-bà, vãng sanh Tịnh độ.

Lại nữa, muốn thành tựu thân Phật và hiển bày cảnh giới Cực Lạc thù thắng ngay trong hiện đời, người tu pháp môn Tịnh độ có thể áp dụng phương pháp “Chỉ, Quán song vận”. Cách này tuy có phần giống như cách “Niệm Phật quán tưởng” nhưng hiệu nghiệm hoàn toàn hơn hẳn.Vì đây là tổng hợp của Thiền (nương nơi Chỉ và Quán), Tịnh (dùng câu Phật hiệu làm đề mục) và Mật (kết hợp thân mật, khẩu mật và ý mật tương ưng).

Cộng với ba tư lương Tín, Nguyện, Hạnh hành giả Tịnh độ sẽ được tịnh hóa tội chướng, nhờ vào sự gia trì của chư Phật, Bồ-tát và Thánh chúng, nương theo đó mà được thuận duyên trong quá trình tu tập cho đến ngày viên mãn.

Kết hợp chỉ quán song hành

Ý nghĩa
Hành giả sau khi đã từng bước thực hành “Chỉ”và “Quán” thuần thục rồi thì bất cứ lúc nào cũng có thể song hành mà không cần phải theo thứ tự vì trong “Chỉ” có “Quán” và ngược lại. Nhờ sự hợp nhất này mà trong mọi lúc, mọi hoàn cảnh hành giả niệm Phật đều không xa rời câu Phật hiệu và cảnh giới Tây phương Cực Lạc.Ngay tại nơi thân phàm phu này mà tâm có thể nghe Phật thuyết pháp, cùng chư Bồ-tát, Thanh văn vô ngại thảnh thơi, tùy duyên hóa độ vô lượng chúng sanh.

Phương pháp hành trì
Trong thời khóa công phu, hành giả trước hết nên buông lơi toàn thân, dùng hơi thở để điều hòa khí huyết. Khi tư thế đã vững vàng, thư thái hành giả bắt đầu quán tưởng Tây phương Tam Thánh (Phật A-di-đà, Bồ-tát Quán Thế Âm, Bồ-tát Đại Thế Chí) cùng lúc xuất hiện trước mặt vây quanh là chư Thánh chúng.

Từ nơi tướng lông mày trắng (giữa chặng mày của Phật) xuất hiện một luồng hào quang trắng mát dịu chiếu thẳng vào đỉnh đầu hành giả (tịnh hóa thân nghiệp), từ đỉnh đầu hào quang hóa thành tinh chất cam lồ chảy vào cuống họng (tịnh hóa khẩu nghiệp) rồi chảy xuống ngực (tịnh hóa ý nghiệp). Những tội lỗi của ba nghiệp theo dòng cam lồ biến thành dòng nước màu đen chảy xuống hòa tan vào mặt đất. Lúcnày Phật đưa tay xoa đỉnh đầu và 2 vị Bồ-tát cùng chư Thánh chúng hoan hỷ dùng ánh sáng bao trùm lấy hành giả khiến thân tâm thanh tịnh.

An trụ trong cảnh tịnh lạc này, từ trong tâm khởi lên câu niệm “Nam mô A-di-đà Phật” thật nhẹ nhàng, khoan thai. Mỗi câu niệm Phật quay theo chiều kim đồng hồ xuất hiện giữa ngực hành giả đồng thời tất cả chúng sanh trong pháp giới đều đồng thanh niệm Phật.

Dùng phương pháp này đến giai đoạn viên mãn thân hành giả và thân của tất cả chúng sanh đều hóa hiện thành thân Phật, nơi hành giả ngồi tức khắc biến hiện thành cõi Cực Lạc.Đây chính là sự hợp nhất “Chỉ Quán song hành”, là diệu dụng của pháp môn Tịnh độ niệm Phật.

Hành giả thực hành phương pháp này tinh cần có thể chủ động thời gian, nhưng nếu muốn kết thúc thời công phu cần phải gom hết các pháp quán tưởng và câu Phật hiệu biến thành một luồng ánh sáng trắng hòa tan vào giữa ngực của mình. Sau đó chấp tay trang nghiêm hồi hướng công đức về cõi Tịnh độ.

Đến đây là kết thúc phần điều kiện vãng sanh cõi Tịnh độ.Tùy vào căn cơ cạn sâu, cao thấp mà chọn lấy phương cách hành trì thích hợp.Khi đã chọn được phương pháp tu hành điều cần yếu là nên tinh tấn quyết tâm.

Sự nỗ lực của tự thân chính là gốc của giải thoát.Nếu ta không tự nỗ lực tiến tu lại giao phó hết cho tha lực của chư Phật thì đó là một sự nhầm lẫn lớn.Có câu “Cảm ứng đạo giao nan tư nghì” nghĩa là sự giao thoa từ trường tâm linh giữa Phật và chúng sanh là không thể nghĩ bàn cũng ví như tần sóng vô tuyến điện. Nếu chúng ta không mở radio thì dù sóng vô tuyến điện có mạnh đến đâu đi nữa cũng không thể phát kênh chuyển đài.

chúng sanh có “cảm” Phật liền “ứng” hiện, tùy theo mức độ mạnh yếu khác nhau sẽ có kết quả cao thấp, nhanh chậm sai biệt. Cõi Tịnh độ là thật có.Phật A-di-đà, chư Bồ-tát và Thánh chúng cõi Cực Lạc đang mong chờ chúng sanh là thật có. Tha lực của chư Phật phủ trùm khắp không gian và thời gian là thật có, nhưng nếu không tự biết khắc niệm tín thành, tha thiết nguyện cầu, hành sâu miên mật thì tất cả đều chỉ là huyễn hóa hư vô. Rất mong quý đạo hữu lưu tâm!

 

Vấn đề trợ niệm lúc lâm chung

Kinh Tiểu Bộ, kinh Tập, chương 4, phẩm 8, kinh Già, đức Thế Tôn dạy:

“Sinh mạng này ngắn thay,
Trong trăm năm, rồi chết,
Nếu ai sống hơn nữa,
Rồi cũng chết vì già.”

Sinh, già, bệnh, chết là quy luật tất yếu, tùy theo nhân duyên, nghiệp quả mà hình thức sống chết có khác nhau. Có người chết nơi hoang dã, chết vì tai nạn giao thông, chết bất đắc kỳ tử… không người thân thuộc bên cạnh, không đủ nhân duyên gặp được bậc thiện tri thức khai thị trợ niệm lúc sắp lìa đời. Điều này đã được Ngài Tịch Thiên dạy rõ trong Nhập Bồ-tát hạnh:

“Chết là đi giữa cô đơn

Giã từ thân thuộc bỏ luôn xác này

Độc hành phiêu bạt như mây

Đâu còn thù, bạn với ai ích gì!”.

Đây là tình cảnh đang rất phổ biến trong xã hội, nghĩ đến thật đau lòng lắm thay!

1. Trợ niệm là gì?

Trợ niệm là công việc giúp người sắp lâm chung khơi dậy câu Phật hiệu, hướng tâm cầu sinh về cõi Phật, tức là giúp cho chúng sanh đó thành Phật.

2. Mục đích của ban trợ niệm

Ban trợ niệm ra đời dựa trên tinh thần “Ban vui cứu khổ” nghĩa là vận dụng lòng từ, không muốn nhìn thấy chúng sanh khốn khổ lúc lâm chung, đọa lạc vào ba đường ác. Với mục đích nương theo nguyện lực độ tha của chư Phật, trợ giúp người lúc lâm chung trong giây phút quyết định, có thể ghi nhớ và niệm danh hiệu Phật, nhờ đó mà tâm được an tịnh, không bị phiền não, tham luyến quấy nhiễu, một lòng cầu sinh Cực Lạc liền được chư Phật tiếp dẫn y như sở nguyện.

Trong kinh A-di-đà Phật thuyết chép rằng: “Xá-Lợi-Phất! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe nói đức Phật A-di-đà, rồi chấp trì danh hiệu của đức Phật đó, hoặc trong một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bảy ngày, một lòng không tạp loạn. Thời người đó đến lúc lâm chung đức Phật A-di-đà cùng hàng Thánh chúng hiện thân ở trước người đó. Người đó lúc chết tâm thần không điên đảo, liền được vãng sanh về cõi nước Cực Lạc của đức Phật A-di-đà”

3. Ý nghĩa thiết thực của ban trợ niệm

Trợ niệm cho người bệnh lúc lâm chung là việc làm có ý nghĩa vô cùng quan trọng, được hiểu như là cách chuyển hóa tâm thức của chúng sanh trong những giây phút cuối của cuộc đời. Người chưa hiểu đạo vì kẻ ăn xin bố thí chút thức ăn no lòng lúc đói khát vẫn được xem là có lòng từ.Huống gì kẻ tu nhân tịnh nghiệp, siêng niệm hồng danh Phật há lại thấy khổ mà không cứu sao? Cổ đức dạy: “Niệm Phật một câu phước sinh vô lượng. Lạy Phật một lạy tội diệt hà sa”. Thế nên, nếu là người chuyên niệm Phật nên lấy câu Phật hiệu làm phương tiện cứu độ chúng sanh. Vì cứu người là tự cứu chính mình, giúp người niệm Phật cũng chính là giúp mình niệm Phật, giúp người vãng sanh Cực Lạc thành Phật cũng là gieo nhân thành Phật cho chính mình. Hiểu và làm được việc này thì chư Phật ba đời đồng khen ngợi, công đức thật vô lượng vô biên không thể nào suy lường được.

4. Phương pháp trợ niệm lúc lâm chung

Trợ niệm lúc lâm chung đã được đức Thế Tôn và chư Thánh đệ tử của Ngài khéo léo sử dụng như là một phương thuốc tinh thần giúp người lúc lâm chung thoát khỏi nỗi lo âu, sợ hãi và tìm thấy được sự an lạc trong cái chết để tái sinh về một kiếp sống tốt hơn.

Lịch sử đức Phật có kể rằng: “Khi nghe tin vua Tịnh Phạn sắp mạng chung, đức Phật đã lên đường về lại quê nhà. Bên cạnh giường bệnh, đức Phật đã nhẹ nhàng cầm tay vua cha, dùng lời hòa kính khai thị khiến cho đức vua không còn lo sợ, buồn rầu nữa. Trong bảy ngày còn lại của đời người đức vua đã rất hạnh phúc khi được nhìn mặt, được nghe bài pháp chân thành tràn ngập lòng yêu thương từ nơi Thế Tôn, nhờ đó mà vua đã chứng được quả A-la-hán trước khi xả báo thân.”

Tùy theo thời gian, hoàn cảnh, phương pháp tu tập mà sự trợ niệm cũng được phân chia theo hai hệ thống:

a. Hệ thống Nam truyền

Phương pháp trợ niệm trong hệ thống Nam truyền là những lời pháp thoại ngắn do chính đức Phật hoặc các vị Thánh đệ tử như ngài Xá-lợi-phất, ngài A-nan… trực tiếp khai thị. Nội dung khai thị cũng được uyển chuyển phù hợp với từng đối tượng, nhằm củng cố niềm tin kiên định đối với Tam bảo, giá trị của đời sống phạm hạnh, công đức của các việc thiện lành và sự xác quyết của Tam pháp ấn: Vô thường, Khổ, Vô ngã.

Xuyên suốt trong hệ thống kinh tạng Nikaya có rất nhiều những bài thuyết pháp với nội dung như trên, trưởng giả Cấp Cô Độc là một trong những trường hợp đó.

Khi bệnh trở nên trầm trọng, trưởng giả đã nhờ một người đi đến thành Xá Vệ, rừng Kỳ Đà đảnh lễ Thế Tôn xin được phép thỉnh tôn giả Xá-lợi-phất đến nơi mình đang ở. Tôn giả Xá-lợi-phất nhận lời rồi đến gặp và có lời khai thị cho ông Cấp Cô Độc về sự buông xả, không chấp thủ mọi vật trên tinh thần vô ngã.

Kinh Trung bộ, kinh Giáo Giới Cấp Cô Độc chép: “…Thưa Tôn giả Sariputta, con không có thể kham nhẫn, con không có thể chịu đựng. Sự khổ thống của con gia tăng, không có giảm thiểu; sự gia tăng rõ rệt, không có giảm thiểu.Thưa Tôn giả Sariputta, ví như một người lực sĩ chém đầu (một người khác) với một thanh kiếm sắc bén; cũng vậy, thưa Tôn giả Sariputta, những ngọn gió kinh khủng thổi lên đau nhói trong đầu con.

Thưa Tôn giả Sariputta, con không có thể kham nhẫn, con không có thể chịu đựng. Những khổ thống của con gia tăng, không có giảm thiểu; sự gia tăng rõ rệt, không có giảm thiểu. Thưa Tôn giả Sariputta, như một người lực sĩ lấy một dây nịt bằng da cứng quấn tròn quanh đầu rồi xiết chặt; cũng vậy, thưa Tôn giả Sariputta, con cảm thấy bị đau đầu một cách kinh khủng…” Cứ như vậy sự thống khổ về thân thể lúc tan rã khiến cho tâm của trưởng giả Cấp Cô Độc không thể nào an lạc.

Tôn giả Xá Lợi Phật đã ân cần khai thị về sự không chấp thủ vào 6 căn, 6 trần cho đến 6 thức như sau “…Do vậy, này Cư sĩ hãy học tập như sau : “Tôi sẽ không chấp thủ con mắt, và tôi sẽ không có thức y cứ vào con mắt”. Này Cư sĩ, hãy học tập như vậy. Do vậy, này Cư sĩ, hãy học tập như sau: “Tôi sẽ không chấp thủ tai, và tôi sẽ không có thức y cứ vào tai”.

Này Cư sĩ, hãy học tập như vậy. Do vậy… không chấp thủ mũi… y cứ vào mũi… hãy học tập như vậy. Do vậy… không chấp thủ lưỡi… y cứ vào lưỡi…. hãy học tập như vậy. Do vậy… không chấp thủ thân… y cứ vào thân… hãy học tập như vậy. Do vậy… không chấp thủ ý… y cứ vào ý… hãy học tập như vậy. Do vậy… không chấp thủ sắc… y cứ vào sắc… hãy học tập như vậy.

Do vậy… không chấp thủ tiếng… y cứ vào tiếng… hãy học tập như vậy. Do vậy… không chấp thủ hương… y cứ vào hương… hãy học tập như vậy. Do vậy…. không chấp thủ vị… y cứ vào vị… hãy học tập như vậy. Do vậy… không chấp thủ xúc… y cứ vào xúc… hãy học tập như vậy. Do vậy, này Cư sĩ, hãy học tập như sau: “Tôi sẽ không chấp thủ pháp, và tôi sẽ không có thức y cứ vào pháp”. Này Cư sĩ, hãy học tập như vậy…”

Nhờ nghe bài pháp này của tôn giả Xá Lợi Phật và sự giảng dạy của Tôn giả A-nan, cùng với phước đức mà ông đã tích tụ trong những năm tháng làm người cư sĩ ngoại hộ bên cạnh đức Thế Tôn và Tăng đoàn nên sau khi thân hoại mạng chung ông được sinh về cõi trời Đâu Suất.

Kinh cũng chép: “…Rồi Tôn giả Sariputta và Tôn giả Ananda sau khi giảng dạy cho cư sĩ Cấp Cô Độc với bài thuyết giảng, từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi. Rồi cư sĩ Cấp Cô Độc, sau khi Tôn giả Sariputta và Tôn giả Ananda ra đi không bao lâu, sau khi thân hoại mạng chung liền sinh lên cõi Tusita (Đâu-suất thiên)…”

Trên đây là một trong số những trường hợp tiêu biểu về trợ niệm lúc lâm chung được tìm thấy trong hệ thống kinh tạng Nam truyền. Qua đó cho thấy giá trị thực tiễn và ý nghĩa vô cùng to lớn của việc trợ niệm đối với những người đang trong giây phút cuối cuộc đời.

Đối với hầu hết những chúng sanh có tu tập hay không tu tập nhưng chưa dự phần vào Thánh quả thì giây phút lâm chung rất cần có thiện tri thức bên cạnh khai thị nhằm chuyển hóa tâm thức một cách mãnh liệt để có thể không rơi vào những đường ác và tối thiểu cũng được tái sinh ở cõi người.

b. Hệ thống Bắc truyền

Trợ niệm lúc lâm chung trong hệ thống Bắc truyền phần nhiều được pháp môn Tịnh độ và Mật tông xiển dương.

Mật tông căn cứ vào “Sáu pháp chuyển di tâm thức” của tổ sư Naropa và “5 giáo huấn chuyển di tâm thức” về cõi Tây phương Cực Lạc được đề cập đến trong Lời vàng của thầy tôi. Muốn thực hành những phương pháp kể trên cần phải có một bậc thầy đầy đủ năng lực tâm linh hướng dẫn, đồng thời phải trải qua một thời gian dài tu chứng thực hành từ bước căn bản như: Quy y và phát Bồ-đề tâm, các giai đoạn chuẩn bị, các giai đoạn phát triển và sau cùng là các giai đoạn hoàn thiện.

Tuy nhiên theo pháp môn Tịnh độ phương pháp trợ niệm lúc lâm chung có phần đơn giản hơn nhưng không vì thế mà lơ là xem thường hoặc làm qua loa, chiếu lệ.

Việc thành lập ban trợ niệm phải được chọn lọc kỹ càng dưới sự hướng dẫn của ít nhất là một vị Thầy có đức độ, uy tín. Phương thức trợ niệm cũng phải phù hợp theo tinh thần chánh pháp Phật dạy.
Để kết quả trợ niệm được thành tựu viên mãn cần phải phối hợp chặt chẽ các yếu tố sau:

Yêu cầu đối với người trợ niệm

Ngày nay vấn đề thành lập và sinh hoạt của ban trợ niệm có nhiều thay đổi tích cực để thích nghi với hoàn cảnh cụ thể. Tuy nhiên bên cạnh đó cũng có rất nhiều ban trợ niệm rơi vào tình trạng mất phương hướng xa rời với chánh pháp, làm mất tôn nghiêm, gây ảnh hưởng không tốt đến pháp môn tu tập.

Để làm trong sạch, vững mạnh nội bộ của ban trợ niệm, cần phải biết rõ những điều gì có thể dẫn đến sự tha hóa biến chất của một thành viên.Đồng thời củng cố, xây dựng cho tự bản thân mỗi thành viên những yếu tố tối thiểu cần thiết để hình thành nên tư cách của một người trợ niệm.

Những yếu tố cần thiết

Quy y và một lòng kính tin Tam bảo

Thọ trì năm giới cấm

Kính trọng Hòa thượng Bổn sư và các bậc tôn đức

Có lòng từ bi phục vụ chúng sanh không mệt mỏi

Kính nhường, thân thiện, nhiệt tình giúp đỡ đối với mọi người

Có trách nhiệm đối với công việc Phật sự

Gia đình hòa thuận, hạnh phúc

Có uy tín trong cuộc sống

Làm tròn trách nhiệm với gia đình

Sức khỏe tốt, không bệnh truyền nhiễm

Những điều nên tránh

Không tự phụ, kiêu căng, cống cao ngã mạn

Không chê bai kinh điển Nam truyền (Phật giáo Nguyên thủy)

Không phỉ báng các pháp môn tu khác của Bắc truyền (Phật giáo Phát triển)

Không gây chia rẽ, mất đoàn kết trong nội bộ

Không nhận quà biếu, tiền bạc do gia đình người được trợ niệm dâng tặng

Không được nói xấu, khinh miệt gia đình và người được trợ niệm

Yêu cầu đối với gia đình người được trợ niệm

Gia đình người bệnh là yếu tố không thể thiếu trong quá trình trợ niệm. Vì thế cần có những yêu cầu đặt ra để gia đình theo đó mà nhận biết được những gì nên và không nên làm, nhằm giúp cho người thân của mình có một chuyến đi xa an lành, thuận lợi.

Những điều cần thiết

Tỏ lòng nhiệt thành chăm sóc người bệnh

Ân cần khuyên nhủ, an ủi, động viện người bệnh vượt qua đau khổ do bệnh tật, nghiệp chướng

Chuẩn bị hậu sự một cách gọn gàng, chu đáo

Vệ sinh sạch sẽ phòng ở và cơ thể người thân

Sinh hoạt, đi lại, trò chuyện nhẹ nhàng, kín đáo

Nếu có điều kiện nên để người bệnh ở một phòng riêng, thoáng mát

Liên hệ và thỉnh mời ban hộ niệm tại các chùa gần nhất

Những điều nên tránh

Không nên lôi kéo người thân vào các cuộc tranh chấp tài sản

Không nên than khóc, buồn rầu trước mặt người thân

Không nên làm cơ thể và tinh thần người thân bị kích động mạnh

Không nên tổ chức ăn uống, tiệc tùng làm mất sự an lành của người thân

Không nên để chó, mèo hoặc các vật dụng có mùi khó chịu trong phòng người bệnh

Mối tương quan giữa ban trợ niệm và gia đình người bệnh

Để kết quả của việc trợ niệm được thành tựu như ý nguyện, đối với chuyên môn ban trợ niệm cũng cần phải nắm rõ những điều căn bản làm sao cho công việc tiến hành đúng như mục đích và ý nghĩa đặt ra.Song song, điều kiện cần thiết là sự hợp tác tích cực từ phía gia đình. Nếu gia đình không đồng thuận quan điểm thỉnh ban trợ niệm, chắc chắn việc tiếp sức cho người lúc lâm chung sẽ không như mong muốn. Thế nên, sự hợp tác nhịp nhàng giữa hai bên là điều vô cùng quan trọng.

Các việc cần làm trước khi trợ niệm

Ân cần hỏi thăm gia đình và tình trạng sức khỏe, tinh thần của người bệnh

Hỏi rõ nguyên nhân và quá trình thời gian lâm bệnh

Hỏi rõ sở thích của người bệnh

An ủi, khuyên thân nhân người bệnh đừng quá bi thương, tập trung niệm Phật

Dán tờ thông báo trước của phòng người bệnh với nội dung sau:

– Ban trợ niệm tại chùa:….., do thầy….hướng dẫn

– Thân nhân, bạn bè người bệnh không nên ra vào khu vực trợ niệm

– Giữ không khí trang nghiêm, thanh tịnh không nên khóc than nơi trợ niệm

– Đem hết tình thương một lòng trì niệm danh hiệu Phật giúp người bệnh vãng sanh Cực Lạc

– Mọi thủ tục nhập liệm, tổ chức tang lễ nên cử hành sau 8 tiếng niệm Phật liên tục không gián đoạn

– Kính mong tất cả mọi người hoan hỷ, trợ giúp

Các việc cần làm trong lúc trợ niệm

Thiết trí bàn Phật trang nghiêm (ảnh Tây Phương Tam Thánh) tùy theo không gian, hoàn cảnh gia đình

Mọi người đứng trang nghiêm, giữ khoảng cách vừa đủ để tạo không gian dễ chịu cho người bệnh

Quy y và đảnh lễ Tam bảo cho người bệnh

Đồng thanh niệm Phật với lòng cung kính

Sử dụng chuông mõ để trợ niệm nếu cần thiết, tiếng chuông mõ giữ nhịp cân bằng

Tiếng niệm không to, không nhỏ, không nhanh, không chậm, nhẹ nhàng, thanh thoát

Có thể ngồi niệm Phật (trên ghế) nếu thời gian niệm Phật kéo dài

Chia ra từng nhóm luân phiên trợ niệm để không tổn hao sức khỏe

Cách khoảng 30 phút nâng ảnh Phật đến gần người bệnh để họ nhìn rõ được kim thân Phật, Bồ-tát

Luôn quán sát và kiểm tra tư thế người bệnh

Giữ tâm trạng bình thản khi thấy có dấu hiệu vãng sanh

Các việc nên tránh trong lúc trợ niệm

Không nên quát tháo, lớn tiếng sai bảo gia đình người bệnh

Không chen lấn, giành chỗ, xô đẩy nhau lúc trợ niệm

Không đứng lên, ngồi xuống nhốn nháo trong lúc trợ niệm (nếu có việc cần thiết nhẹ nhàng ra ngoài)

Không tự ý đụng chạm vào cơ thể người bệnh

Không nên nghe điện thoại hoặc trò chuyện trong lúc trợ niệm

Các việc gia đình người được trợ niệm cần làm

Phân chia công việc và phối hợp nhịp nhàng.

Có niềm tin vào Tam bảo và ban trợ niệm.

Thường xuyên tiếp nước, khăn lau cho ban trợ niệm.

Người không có phận sự nên niệm Phật cùng ban trợ niệm.

Dùng tài sản của người bệnh làm các việc phước lành như: bố thí, cúng dường, phóng sinh, ấn tống kinh sách hồi hướng cho người bệnh.

Sau khi người bệnh quá vãng, thân nhân cũng nên duy trì việc làm trên đồng thời dâng những món chay, hoa quả, hương đèn thanh khiết cúng cho người quá vãng.

Trên đây chỉ nói sơ lược những điều căn bản để hình thành nên ban trợ niệm đủ và đúng tư cách. Những thành viên trong ban hộ niệm chính là những người con ưu tú của Tam bảo, làm công việc hết sức cao quý đó là giúp người vãng sanh, quy hướng Tịnh độ. Thế nên, ban trợ niệm không thể lơ là xem thường trách nhiệm mà cần phải nỗ lực tiến tu hơn nữa để làm tấm gương tốt cho các Phật tử noi theo.

Về phía gia đình những người được trợ niệm cũng nên ý thức về giây phút sau cùng trong cuộc đời của người thân mình.Đừng vì một chút luyến thương, than khóc mà khiến người thân yêu của gia đình vĩnh viễn ở mãi trong cõi khổ đau. Nếu là người con có hiếu, là người bạn đời có thủy chung, trong giây phút ngắn ngủi quan trọng đó hãy cùng ban trợ niệm dốc hết lòng thành, trợ niệm tiếp sức cho người lúc lâm chung được nhẹ nhàng siêu thoát.

Sau khi đã hoàn thành việc trợ niệm, từng thân nhân trong gia đình cũng nên tự giác nhắc nhở nhau siêng năng học Phật, tin sâu Tam bảo, thiết tha niệm Phật, làm nhiều việc thiện lành để hiện tại được an lạc, vị lai được vãng sanh Tịnh độ. Nhờ công đức đó cửu huyền thất tổ, cha mẹ nhiều đời cũng được vãng sanh về cõi an lành. Rất mong lắm thay!

_____________________

Giải nghi

1. Niệm “A-di-đà” hay “A-mi-đà” thế nào cho đúng?

Đây là vấn đề được đưa ra bàn thảo trong những tháng vừa qua nhưng chưa có kết quả cụ thể, khiến ít nhiều Phật tử tu theo pháp môn Tịnh độ hoang mang, lo lắng.

Thật ra trên mặt ngôn từ niệm “A-di-đà Phật” hay “A-mi-đà Phật” đều không đúng.Vì sao?Vì nguyên gốc của danh hiệu Phật A-di-đà là từ tiếng Phạn (Sankrit) được viết là AMITABHA.Vậy nếu niệm cho đúng phải là “Nam mo Amitabha Buddha.”

Tuy nhiên, đã bao nhiêu thế kỷ nay chư Tôn đức tại Việt Nam vẫn thường quen niệm và hướng dẫn Phật tử chuyên trì niệm “Nam mô A-di-đà Phật” được phiên âm ra từ Phạn ngữ AMITABHA.

Về phương diện ngôn từ tuy có sai khác, nhưng về mặt ý nghĩa vẫn bao hàm đầy đủ công hạnh vi diệu tột cùng của Phật A-di-đà, đó là: Vô Lượng Quang, Vô lượng Thọ và Vô Lượng Công Đức.

Thế nên, dưới sự dạy dỗ, hướng dẫn và gương vãng sanh của chư Tổ sư tu theo Tịnh độ tại Việt Nam, quý Phật tử nên tiếp tục hành trì và niệm rõ ràng sáu chữ “Nam mô A-di-đà Phật” với tâm nguyện thành kính thiết tha thì kết quả tu tập sẽ hoàn toàn viên mãn.

Vì sao? Vì đã có rất nhiều chư vị Hòa thượng uy đức vãng sanh từ câu Phật hiệu này như: HT. Thích Tâm Thanh, HT. Thích Thiền Tâm… (có thể tham khảo sách Hoa sen vẫn nở cùng tác giả). Ngoài ra còn rất nhiều Phật tử hiện tướng vãng sanh ra đi an lành cũng nhờ niệm “Nam mô A-di-đà Phật”.

2. Lúc sống không biết tu, không niệm Phật, khi gần lâm chung chỉ cần niệm 10 niệm có vãng sanh không?

Nếu nói như vậy tất cả mọi người đều đã vãng sanh, đã không còn cảnh khổ đau nơi cõi trần gian tạm bợ này nữa rồi.

Trên thực thế nếu căn cứ vào lời nguyện thứ 18 của Phật A-di-đà mà hiểu như vậy thì thật là một sự nhầm lẫn nghiêm trọng.

Ở đây chúng ta nên hiểu rằng 10 niệm lúc lâm chung ví như giọt nước làm tràn ly nước, chứ không hề có tính chất quyết định vãng sanh về cõi Tịnh độ. Vì sao? Vì kinh A-di-đà, đức Thích-ca Mâu-ni Thế Tôn dạy:

“Xá-Lợi-Phất! Chẳng có thể dùng chút ít thiện căn phước đức nhân duyên mà được sinh về cõi đó. Xá-Lợi-Phất! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe nói đức Phật A-di-đà, rồi chấp trì danh hiệu của đức Phật đó, hoặc trong một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bảy ngày, một lòng không tạp loạn.Thời người đó đến lúc lâm chung đức Phật A-di-đà cùng hàng Thánh chúng hiện thân ở trước người đó. Người đó lúc chết tâm thần không điên đảo, liền được vãng sanh về cõi nước Cực Lạc của đức Phật A-di-đà.”

Cho nên biết, pháp môn niệm Phật tuy dễ tu chứng nhưng nếu không có sự tinh tấn hành trì, cộng thêm với ba tư lương tín, nguyện, hạnh và làm các việc phước đức hồi hướng về cõi Cực Lạc, thì lúc lâm chung rất khó mong vãng sanh.

Trường hợp lúc còn sống làm các điều như trên nhưng khi lâm chung do nghiệp chướng sâu dày bị não hại bởi bệnh tật khiến câu niệm Phật không thể nào khởi lên được. Do đó, cần sự có mặt của bậc thiện tri thức khai thị, giúp chủng tử niệm Phật sẵn có trong người bệnh hiện lên và niệm liên tục từ 1 đến 10 niệm không tạp loạn là được vãng sanh. Đây là điều chắc chắn.

Chúng ta phần đông bị cuốn hút trong tiền tài, danh vọng, quyền lực, mỗi ngày một câu niệm Phật hoặc một chữ Phật cũng không nhớ, vậy làm sao niệm được 10 niệm lúc lâm chung? Vả lại, lúc lâm chung thân xác rã tan, khổ đau tột cùng, tâm thần mờ mịt, không phương hướng, một câu niệm Phật để cho thân tâm an lạc còn không phát khởi nổi huống chi là 10 câu niệm Phật, thật là chuyện hoang đường!

Thế nên sự tu tập cần phải được huân tập trong mỗi phút giây, trong từng hơi thở vì cái chết không hẹn ai bao giờ.Đừng để thời gian trôi qua, đến lúc hấp hối trên giường bệnh mới vội vàng niệm Phật thì đã quá muộn rồi.

3. Có nên quy y Phật A-di-đà và Thánh chúng cõi Cực Lạc không?

Lại có người bảo rằng đã quy y Tam bảo rồi thì cần gì quy y Phật A-di-đà và Thánh chúng cõi Cực Lạc. Điều này hoàn toàn đúng!

Là người Phật tử phải cần quy y Tam bảo, vì Tam bảo chính là nơi nương tựa vững chắc nhất, là nền tảng của mọi thiện đức, là cổng vào ngôi nhà Như Lai, dự phần pháp lạc của Như Lai. Nhưng đối với người tu Tịnh độ cầu vãng sanh Cực Lạc ngoài quy y Tam bảo ra cần nên quy y Phật và Thánh chúng cõi Tịnh độ.Vì sao?Vì đối tượng quy hướng của người niệm Phật chính là cõi Cực Lạc của Phật A-di-đà.

Nếu quy y Tam bảo được xem như lý tưởng của sự tu tập thì quy y Phật và Thánh chúng cõi Tịnh độ được ví như hành động thiết thực cụ thể hóa lý tưởng tu tập đó.

Lại nữa, quy y Tam bảo được xem như người Thầy bổn sư thế độ, còn quy Phật và Thánh chúng cõi Tịnh độ như là Thầy y chỉ sư trên con đường giải thoát. Một hành giả tu tập cần có rất nhiều thầy y chỉ nhưng chỉ có duy nhất một vị bổn sư.Cả hai vị thầy này tuy cách tôn xưng có khác nhưng mục tiêu cứu cánh vẫn là hướng dẫn đệ tử đi đúng chánh pháp, giải thoát luân hồi.

4. Ban trợ niệm nên quy y Tam bảo hay Nhị bảo?

Vấn đề này đang xảy ra tại một số ban trợ niệm ở nước ngoài. Hiện tượng không quy y Tăng bảo mà chỉ quy y Phật bảo và Pháp bảo đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến giá trị tuyệt vời trong giáo lý của Phật nói chung và Pháp môn tu Tịnh độ nói riêng. Hiện tượng này đang manh nha xuất hiện tại Việt nam khiến cho dư luận vô cùng bức xúc.

Hơn 2500 năm Phật giáo ra đời cũng chính là khoảng thời gian Tam bảo tồn tại trên thế gian. Nếu Tam bảo không còn nguyên vẹn nữa, đó là dấu hiệu hoại diệt của Phật pháp, và những ai đã, đang và sẽ không quy y Tam bảo mới thật sự là mầm mống làm suy đồi chánh Pháp.

Lịch sử Phật giáo đã ghi nhận rõ sự ra đời của Tam bảo.Phật bảo tại thế gian chính là đức Bổn Sư Thích-ca Mâu-ni Phật.Pháp bảo đầu tiên tại thế gian là bài pháp Tứ Diệu Đế lần đầu tiên được giảng tại vườn Lộc Uyển.Tăng bảo đầu tiên tại thế gian chính là năm anh em Tôn giả Kiều Trần Như, tuần tự chứng đắc Thánh quả khi nghe giáo lý 4 sự thật “Khổ, Tập, Diệt, Đạo”.Kể từ đó Tam bảo hình thành, xây dựng nên ngôi nhà Phật giáo trường tồn đến hôm nay.

Ví như một chiếc kiềng ba chân vững chãi, nếu thiếu một chân thì không còn giá trị. Tam bảo cũng thế!

Hơn nữa, một Phật tử thuần thành, chân chính cần phải hiểu rõ hơn ai hết về giá trị bất biến của Tam bảo.Không một ai được gọi là Phật tử nếu không quy y đầy đủ Tam bảo, càng không có một giáo lý nào được gọi là của đạo Phật chân chính mà không chấp nhận sự tồn tại của Tam bảo.

Vì vậy, ban trợ niệm hay nói cụ thể là một người nào không quy y Tam bảo mà quy y Nhị bảo (Phật bảo và Pháp bảo) thì ban trợ niệm cũng như người đó hoàn toàn không phải tu theo lời Phật càng không phải là người Phật tử đúng nghĩa.

5. Nên niệm sáu chữ “Nam mô A-di-đà Phật” hay niệm bốn chữ “A-di-đà Phật”?

Niệm sáu hay bốn chữ cũng đều là niệm Phật. Tuy nhiên, cách niệm sáu chữ được chư Tổ sư hướng dẫn và phổ biến rộng rãi trong số đông hành giả tu niệm Phật nói riêng và trong tín ngưỡng Phật giáo dân gian nói chung.

Vì sao? Vì niệm đầy đủ sáu chữ có những lợi ích sau:

Một, thể hiện sự quy kính tột bậc đối với chư Phật, cụ thể là Đức Phật A-di-đà. Vì “Nam mô” có nghĩa là quy y, kính ngưỡng, đảnh lễ.v.v…

Hai, tăng trưởng niềm tin tuyệt đối vào giáo pháp của Phật, đặc biệt là pháp môn Tịnh độ.Vì sao?Vì câu niệm Phật bao hàm toàn bộ nền giáo lý vi diệu của ba đời chư Phật.Theo nghĩa rộng gồm đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật “Bố thí, Trì giới, Tinh tấn, Nhẫn nhục, Thiền định, Trí tuệ”, nói gọn tóm thâu vào Tam vô lậu học “Giới, Định, Tuệ”.Trên phương diện thực hànhtrọn vẹn cả ba pháp môn Thiền (vì câu niệm Phật chính là công án), Mật (câu niệm Phật chính là mật chú chân ngôn chí diệu chí linh), Tịnh (đây là hồng danh đức giáo chủ cõi Tịnh độ, là chánh nhân vãng sanh Cực Lạc).

Ba, khơi dậy ánh quang minh của tự tâm, khiến chúng sinh thể nhập được cảnh giới Cực Lạc ngay hiện đời, hợp nhất thân tứ đại giả hợp với Pháp thân vô cấu của chư Phật một cách viên mãn. Vì sao?Vì danh hiệu Phật có năng lực tẩy trừ những tội chướng, cấu uế mà chúng sanh đã tích tụ trong vô lượng kiếp. Năng lực ấy với đầy đủ sáu chữ “Nam mô A-di-đà Phật” sẽ đưa chúng sanh đến gần Phật quả vì có thể diệt trừ vô minh, soi sáng dòng tâm thức, làm hiển lộ bản tâm thanh tịnh vốn sẵn có trong mỗi chúng sanh.

Đành rằng niệm bốn hay sáu chữ cũng đều do chư Tổ Tịnh độ phương tiện tùy nghi mà hiển bày giúp chúng sanh thuận duyên hơn trên bước đường tu tập. Thế nhưng, nếu niệm danh hiệu Phật với bốn chữ sẽ không mang đến đầy đủ công năng như trên.Vì sao?Vì khi niệm như vậy, tâm chúng sanh rất khó phát khởi sự quy kính tột bậc và niềm tin sâu sắc vào giáo pháp.

Lại nữa, niệm như vậy lâu ngày, hồng danh Phật sẽ trở thành một câu chào xã giao hay một cử chỉ phản xạ tự nhiên mà không hề đặt trọn tâm thành trong lúc khởi niệm, chẳng khác nào một đứa trẻ con quen miệng hát lên bài hát thường ngày nó ưa thích.

Lòng tôn kính phải được đi kèm với ngôn ngữ và hành động xuất phát từ tâm ý chân thành.Cũng vậy, chúng ta tỏ lòng tri ân đức Phật, muốn quy hướng về cảnh giới của Ngài thì không thể nào niệm (gọi) danh hiệu Ngài một cách sáo rỗng, thiếu tôn kính. Đây là điều mà người thế gian còn không được phép huống chi người niệm Phật, cầu sinh Cực Lạc tức là đang đi trên con đường giác ngộ thành Phật.

Thiết nghĩ cần nên hiểu và thành kính niệm danh hiệu Phật với đầy đủ sáu chữ trang nghiêm. Được như vậy, chủng tử niệm Phật sẽ luôn hiện hữu dù trong lúc ốm đau, tật bệnh hoặc ngay trong giờ phút lâm chung. Với công đức thù thắng đó chắc chắn sẽ được vãng sanh, thành tựu Phật quả viênmãn vì lợi ích cho tất cả hữu tình.

(một phần nội dung theo chuahoangphap)

Nam mô A-di-đà Phật

Danh mục

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *